✨Hiến Triết Hoàng quý phi

Hiến Triết Hoàng quý phi

Hiến Triết Hoàng quý phi (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng Kính Ý Thái phi (敬懿太妃), là một trong 4 vị phi tần duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế.

Tiểu sử

Xuất thân cựu tộc

Hiến Triết Hoàng quý phi sinh giờ Mùi, ngày 1 tháng 6 (âm lịch) năm Hàm Phong thứ 6 (1856), xuất thân từ Mãn Châu Tương Lam kỳ Hách Xá Lý thị. Dòng họ Hách Xá Lý thị có nhiều chi, từ thời Thanh sơ đã là danh gia, có Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu của Khang Hi Đế từng là Hoàng hậu của Đại Thanh. Tuy nhiên, không thể không khẳng định một chi dòng dõi của Hiến Triết Hoàng quý phi tương đối thấp.

Tổ phụ của bà là Thư Hưng A (舒興阿), xuất thân gia đình Hách Xá Lý thị có địa vị tương đối thấp, bị phái đến Tây An làm Trú phòng Bát kỳ (駐防八旗), không khác gì một dạng lính canh. Đến khi Thư Hưng A trưởng thành, ông chăm chỉ học sách, vào đầu triều Đạo Quang đã khảo trúng Cử nhân ngành Văn, sang năm sau lại khảo trúng Tiến sĩ, thế là bị điều về Kinh sư làm việc, chính thức trở thành Kinh kỳ (京旗). Ở đó, Thư Hưng A làm qua Thị lang, Y Lê Tướng quân rồi Bạn sự Đại thần (辦事大臣). Thời cuối Đạo Quang, Thư Hưng A từng bị cách chức, sau đầu triều Hàm Phong lại phục khởi, nhậm qua Tuần phủ Vân Nam, Tổng binh, Đại thần Nội vụ phủ rồi Tổng đốc Thiểm Cam. Thư Hưng A vào năm thứ 8 triều Hàm Phong thì chết bệnh.

Xem qua, chỉ một mình Thư Hưng A đạt đến địa vị cao ở hai triều Đạo - Hàm, đã biến dòng dõi Hách Xá Lý thị một chi của ông có thể nhập kinh, hơn nữa còn chính thức đứng vào hàng ngũ thế gia vọng tộc. Thư Hưng A có năm con trai; con cả Hi Linh (熙齡) làm Dự khuyết Đồng tri ở Thiểm Tây; con trai thứ hai Sùng Linh (崇齡), làm đến Tri phủ của Lôi Châu phủ tại Quảng Đông; con trai thứ 3 là Tùng Linh (松齡), làm đến Viên ngoại lang bộ Lễ; con thứ 4 là Huệ Linh (惠齡), làm đến Lang trung bộ Lại; và người con út Ích Linh (益齡), làm Bút thiếp thức ở bộ Công. Ngoài ra Thư Hưng A còn một con gái, gả vào Lão Cung vương phủ (có thủy tổ là Thường Ninh, con trai Thuận Trị Đế), làm Kế thê thứ hai của Thượng thư Diên Hú (延煦). Từ đây là báo hiệu cho một thế cục bước vào hôn nhân với thế gia tôn thất của gia tộc Hiến Triết Hoàng quý phi.

Gia thế đương cao

Gia đình của Hiến Triết Hoàng quý phi ngụ tại Bản xưởng hồ đồng (板厂胡同) gần An Định môn (安定門) tại Bắc Kinh. Phụ thân bà là Sùng Linh, con trai thứ hai của Thư Hưng A. Hiện tại tư liệu về mẹ bà không rõ ràng, nhưng rất có thể bà là con gái trưởng. Bà có ít nhất một em gái, về sau dự Bát kỳ tuyển tú, được chỉ hôn cho Bối lặc Tái Huỳnh (載瀅), là con trai thứ hai của Cung Trung Thân vương Dịch Hân.

Mặt khác, một số đường tỷ muội chi gần của Hiến Triết Hoàng quý phi cũng có những cuộc hôn nhân rất tốt, đều là Tông thất cao cấp trong Hoàng tộc. Như con gái của bá phụ Tích Linh (錫齡), gả cho cháu nội của Duệ Cung Thân vương Thuần Dĩnh (淳穎), một cô nữa gả cho em trai của Đại học sĩ Kỳ Anh (耆英). Con gái của thúc phụ Tùng Linh, tham gia Bát kỳ tuyển tú, được chỉ định gả cho Lý vương phủ Trấn quốc công Phổ Mậu (溥楙), dòng dõi của Lý Ý Thân vương Dận Đào. Một con gái của thúc phụ Ích Linh, gả cho Hòa vương phủ Tiểu tông - Điển Lễ viện Học sĩ Dục Long (毓隆), về sau có cháu trai chính là nghệ sĩ trứ danh Khải Công (启功), cố vấn của Học xã Cửu Tam.

Bởi vậy có thể thấy được, một nhà Hiến Triết Hoàng quý phi chỉ vừa mới đạt được danh vọng từ đời Thư Hưng A, nhưng đã rất nhanh có được địa vị trong hàng ngũ thế gia thông quan liên hôn với cao cấp tông thất. Đặc biệt, trong các lần Bát kỳ tuyển tú, còn được ít nhất hai lần ký danh chỉ hôn, cho thấy địa vị và danh vọng của gia đình Hiến Triết Hoàng quý phi không hề tầm thường.

Đại Thanh tần phi

Nhập cung phong Tần

Năm Đồng Trị thứ 11 (1872), ngày 3 tháng 2 (âm lịch), Hách Xá Lý thị lọt vào danh sách tuyển tú của Đồng Trị Đế.

Năm đó, tuyển tú chỉ định ra được có Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu, Thục Thận Hoàng quý phi làm Tuệ phi, hai vị Tần và một vị Quý nhân. Một trong hai vị Tần đó chính là Hách Xá Lý thị, ngày 14 tháng 9 (âm lịch) năm đó bà chính thức nhập cung và được sắc phong làm Du tần (瑜嬪). Phong hiệu "Du", có Mãn văn là 「Fiyangga」, ý là "Tươi sáng", "Có ánh sáng rọi".

Tháng 10 năm đó, lấy Đại học sĩ Văn Tường (文祥) làm Chính sứ, Lễ bộ Thượng thư Vạn Thanh Lê (萬青藜) làm Phó sứ, tiến hành lễ sắc phong Tần vị. Sách văn viết:

Ghi chép về sinh hoạt trong cung đình của Hách Xá Lý thị không nhiều, tương tự đối với Cung Túc Hoàng quý phi A Lỗ Đặc thị lẫn Đôn Huệ Hoàng quý phi Tây Lâm Giác La thị, bởi vì từ khi đại hôn cho đến khi Đồng Trị Đế băng hà chỉ chưa tròn 2 năm, bên cạnh đó mâu thuẫn giữa Từ Hi Hoàng thái hậu, cùng với Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu và Thục Thận Hoàng quý phi cơ hồ chiếm trọn hết mọi sự chú ý. Dấu ấn để lại của bà trong thời gian này cùng hai vị phi tần kia hoàn toàn mờ nhạt như nhau.

Góa phụ Thái phi

Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), Đồng Trị Đế bệnh trở nên nặng hơn, bà ngày đêm cầu nguyện cho ông nhưng Hoàng đế vẫn không qua khỏi. Sang ngày 15 tháng 11 (âm lịch), Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu tấn phong hậu cung, Du tần thăng làm Du phi (瑜妃). Tháng 12 (âm lịch) năm đó, Đồng Trị Đế băng hà. Năm Quang Tự thứ 20 (1894), nhân lần Từ khánh mừng thọ thứ 60 của Từ Hi Thái hậu, bà được thăng làm Du Quý phi (瑜貴妃).

Năm Quang Tự thứ 34 (1908), ngày 25 tháng 10 (âm lịch), Tuyên Thống Đế Phổ Nghi kế vị, tôn Du Quý phi làm Du Hoàng quý phi (瑜皇貴妃). Sau khi triều Thanh sụp đổ năm 1912, Phổ Nghi và cả Hoàng tộc vẫn sống trong Tử Cấm Thành.

Năm Dân Quốc thứ 2 (1913), ngày 5 tháng 2 (âm lịch), cải danh hiệu Kính Ý Hoàng quý phi (敬懿皇貴妃). Lúc này Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu (cũng gọi Long Dụ Thái hậu) đã qua đời, Hách Xá Lý thị cùng Trang Hòa Hoàng quý phi A Lỗ Đặc thị, Vinh Huệ Hoàng quý phi Tây Lâm Giác La thị đồng tấn tôn Hoàng quý phi vị hiệu, còn có Đoan Khang Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị, phi tần của Quang Tự Đế. Khi đó, trong cung quy tắc cũng không còn quan trọng, Phổ Nghi gọi cả bốn bà đều bằng kính xưng [Thái phi], do đó Kính Ý Hoàng quý phi cũng có thể gọi là Kính Ý Thái phi (敬懿太妃).

Từ khi Đồng Trị Đế ngự băng, tuy Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu cũng ly thế, song trên có Lưỡng cung Thái hậu cùng Thục Thận Hoàng quý phi, bên cạnh đó lại còn có Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu nhập cung kế vị Trung cung, cho nên vị trí của một góa phụ phi tần như Hách Xá Lý thị cứ như vậy trong suốt thời Quang Tự cực kỳ ẩn nhẫn và đầy sự chịu đựng. Thế rồi khi Quang Tự Đế băng ngự, Hách Xá Lý thị chính thức cầm đầu nhóm góa phụ của Mục Tông Đồng Trị, cùng với người đứng đầu nhóm góa phụ của Quang Tự là Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu bước vào tranh chấp.

Theo hồi ức của Phổ Kiệt, cùng một cơ số người trong cung kể lại, Kính Ý Hoàng quý phi Hách Xá Lý thị là người quyết đoán và tính khí nóng nảy, rất trọng lễ nghi và quy tắc, hơn nữa cũng có khí khái không chịu thua thiệt, chính vì vậy luôn xảy ra xung khắc giữa bà và Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu - người luôn dựa vào Từ Hi Thái hậu để có quyền lực. Đến khi Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu vì đau buồn mà qua đời, có một truyền thuyết kể lại rằng, Kính Ý Hoàng quý phi đã chỉ vào quan tài của Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu mà nói:"Cuối cùng thì ngươi cũng có ngày này!". Truyền thuyết này đến nay vẫn không thể kiểm chứng, song có thể thấy phần nào mối xung đột giữa bà và Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu không hề đơn giản.

Sách Thanh bại loại sao (清稗類鈔) thời Dân Quốc cũng có chép về sự xung đột giữa bà và Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu khá gay gắt:

Sau khi Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu băng thệ, bà nuôi dạy Phổ Nghi, khi đó vẫn còn là 1 đứa trẻ, mong muốn được làm Hoàng thái hậu với lý do Phổ Nghi là con nuôi của bà. Tuy nhiên, Viên Thế Khải lại không đồng ý. Quyền lực mà bà tranh đấu còn bị dòm ngó bởi Đoan Khang Hoàng quý phi (Cẩn phi), phi tần của Quang Tự Đế, chủ yếu là ở việc ảnh hưởng lên Phổ Nghi. Nguyên do này là bởi vì Phổ Nghi là "Một con trai thờ hai Tông", có nghĩa một mình Phổ Nghi mang danh thờ tự cho cả Mục Tông Đồng Trị lẫn Đức Tông Quang Tự, do vậy Kính Ý Hoàng quý phi là người đứng đầu nhóm góa phụ của Mục Tông luôn muốn cố gắng tranh giành ảnh hưởng lên Phổ Nghi, muốn tận dụng "Mẫu quyền" mà có lợi. Sau khi Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu qua đời, chỉ còn lại Ôn Tĩnh Hoàng quý phi là đại diện cho phe phái Đức Tông Quang Tự. Sự đấu tranh giữa bà và Ôn Tĩnh Hoàng quý phi đặc biệt thể hiện rõ trong các ghi chép của Phổ Kiệt, có thể kể đến lần lựa chọn Hậu - Phi cuối cùng của nhà Thanh, Uyển Dung và Văn Tú.

Sau đó, Phổ Nghi bị buộc phải rời khỏi Tử Cấm Thành, bà cùng Đôn Huệ Hoàng quý phi ra đến phủ của Vinh Thọ Cố Luân Công chúa cho đến hết phần đời còn lại.

Năm Dân Quốc thứ 20 (1931), ngày 27 tháng 12 (tức ngày 5 tháng 2, năm 1932), Kính Ý Hoàng quý phi Hách Xá Lý thị mắc bệnh rồi qua đời, hưởng thọ 77 tuổi. Tang lễ của bà được tổ chức vào ngày 23 tháng 2 với hàng ngàn người tham dự. Chính phủ Bắc Dương thậm chí đã gửi lực lượng an ninh để kiểm soát đám đông. Cựu hoàng Phổ Nghi quyết định dâng tôn thụy hiệu cho bà là Hiến Triết Hoàng quý phi (獻哲皇貴妃), sau đó tạm quàn tại Bá Lâm tự (柏林寺).

Năm Dân Quốc thứ 24 (1935), tháng 2, quan tài của bà, cùng với quan tài của Đôn Huệ Hoàng quý phi đều được táng tại Phi viên tẩm của Huệ lăng (惠陵), Thanh Đông lăng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Khâm Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽成皇后; 1052 - 1102), còn gọi là **Chu Đức phi** (朱德妃) hoặc **Chu Thái phi** (朱太妃), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc và là sinh
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Hiển Cung Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯恭皇后; 1084 - 1109), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là sinh mẫu của Tống Khâm Tông Triệu Hoàn.
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Thái tử phi** (chữ Hán: 太子妃), là một danh hiệu dành cho chính thê của Thái tử. Danh hiệu này thường được hiểu là hôn phối của Hoàng thái tử, còn gọi đầy đủ là
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Vĩnh Hoàng** (chữ Hán: 永璜; ; 5 tháng 7 năm 1728 - 21 tháng 4 năm 1750), Ái Tân Giác La, là Hoàng trưởng tử của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Thân phận Hoàng
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hách Xá Lý** (; Pinyin: Hesheli; Manchu: _Hešeri_), là một họ người Mãn thuộc Kiến Châu Nữ Chân. Nguồn gốc họ này xuất phát từ bộ tộc Hách Xá Lý với địa bàn sinh sống
**Hiền phi** (chữ Hán: 賢妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. ## Một số nhân vật nổi tiếng ### Trung Quốc Dưới thời
**Vĩnh Thành** (; 21 tháng 2 năm 1739 – 5 tháng 4 năm 1777), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 4 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Cuộc đời Hoàng tử
**Hoằng Trú** (chữ Hán: 弘晝; ; 5 tháng 1 năm 1712 - 2 tháng 9 năm 1770), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 5 tính trong số những Hoàng tử trưởng thành của
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Thanh Mục Tông** (chữ Hán: 清穆宗; 27 tháng 4 năm 1856 – 1 tháng 6 năm 1875), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Thanh
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi** (chữ Hán: 敏惠恭和元妃; 1609 – 1641), được biết đến với tên gọi **Hải Lan Châu** (海蘭珠), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thái Tông Hoàng
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Đường Huyền Tông Võ Huệ phi** (chữ Hán: 唐玄宗武惠妃, ? - 737), còn gọi là **Trinh Thuận Hoàng hậu** (貞順皇后), là một sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, vị Hoàng đế thứ