✨Đoàn Quý phi

Đoàn Quý phi

Hiếu Chiêu Hoàng hậu (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi Đoàn Quý phi (段貴妃) hoặc Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn Phúc Lan, và là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Tần.

Bà nổi danh ở xứ Đàng Trong với biệt hiệu Bà chúa Tằm Tang; đương thời là một Quốc mẫu nổi tiếng nhân hậu, giúp dân chúng phát triển ngành nghề về ươm tơ, dệt lụa.

Thân thế

Đoàn quý phi tên huý là Ngọc, sinh năm 1601 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, bên bờ Sài Thị Giang (tức Sông Chợ Củi, nay là sông Thu Bồn), thuộc huyện Duy Xuyên). Ngày xưa, làng Đông Yên kéo dài từ Chiêm Sơn (nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) cho đến Chợ Củi (nay là xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn).

Bà là em gái của Quốc Cựu Sầm Oai hầu Đoàn Công Quảng, trưởng phái nhất, chi phái nhất của tộc Họ Đoàn ở Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, con gái thứ ba của Thạch Quận công Đoàn Công Nhạn (段公雁) và thứ thất phu nhân Võ Thị Thành (武氏成). Ông Nhạn là một hào trưởng có thế lực của vùng Chiêm Sơn. Đông Yên là làng nằm bên bờ sông Thu Bồn có nhiều đất bãi bồi màu mỡ vốn là làng nghề chuyên về trồng dâu nuôi tằm. Gia đình ông Đoàn Công Nhạn trở thành hào phú cũng nhờ nghề trồng dâu nuôi tằm.

Sách Đại Nam Nhất Thống chí đã viết: "Bà là người minh mẫn, thông sáng... sáng thơm, tú mị, phép tốt trinh thuần" và "Năm mười lăm tuổi (Bà) hái dâu bên bãi, trông trăng mà hát. Bấy giờ Huy Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) đi chơi Quảng Nam, Thần Tông Hoàng Đế ta (tức Thế tử Nguyễn Phúc Lan lúc bấy giờ) theo đi hộ giá. Đêm đáp thuyền chơi trăng, đỗ thuyền ở Điện Châu (bây giờ là An Phú Tây) câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến hỏi, biết là con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu Chúa ở tiềm để, được yêu chiều lắm".

Sau khi Chúa Sãi băng hà năm 1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định dời phủ chúa từ làng Phước Yên (Quảng Điền) về làng Kim Long (Phú Xuân). Đoàn Thị Ngọc được phong Đoàn Quý Phi và cha bà, ông Đoàn Công Nhạn được phong là Thạch Quận công.

Tuy sống trong phủ chúa nhưng Đoàn Quý Phi không quên nghề xưa, hết lòng khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ươm tơ, nhờ thế nghề tằm tang của xứ Đàng Trong phát triển rực rỡ, không chỉ những làng quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam quê bà mà cả ở kinh đô Phú Xuân. Hội An đã trở thành một thương cảng phát triển, mở cửa giao lưu với bên ngoài, trong đó đường bát, lâm thổ sản và nhất là tơ lụa trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Sau này dân xứ Đàng Trong nhớ ơn nên tôn bà là Bà Chúa Tằm Tang.

Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình.

Bà chúa Tằm Tang của Đàng Trong

Đoàn phu nhân đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề Tằm tang ở Đàng Trong được mở mang, đã mở mang vào thời kỳ đó và đã sản xuất được nhiều mặt hàng tơ lụa nổi tiếng như đoạn, lĩnh, gấm, vóc, trườu, sa để bán trong nội địa và xuất khẩu ra nước ngoài qua thương cảng Hội An. Bởi vậy, Lê Quý Đôn đã viết trong Phủ Biên Tạp Lục rằng:... " Người Phủ Thăng, Phủ Điện dệt được các loại the, đoạn, lụa, là hoa hòe chẳng kém gì Quảng Đông ".

Cũng từ đó, cảng thị Hội An dưới thời Chúa Nguyễn đã trở thành một trung tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế xuyên đại dương trong thế kỷ XVI - XVII nối liền Tây Âu và Viễn Đông. Và Đoàn phu nhân trở thành " Bà Chúa Tầm Tang " ở Đàng Trong. Các cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở quê hương bà đã từng hát:

:: Chiêm Sơn là, lụa mỹ miều :: Mai vang tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng :: Nương dâu xanh thắm quê mình :: Nắng lên Gò Nổi đượm tình thiết tha :: Con tằm kéo kén cho ta :: Tháng ngày cần mẫn làm ra lụa đời...

Cuối đời

Đoàn Quý phi sinh hạ được ba công tử, trong đó các công tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, công tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành Thế tử, tức Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Còn công chúa út, theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm.

Khi con là Thái Tông hoàng đế Phúc Tần lên ngôi Chúa, bà được tôn làm Quốc Thái phu nhân (國太夫人).

Bà mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12 tháng 7 tại Dinh Trấn Thanh Chiêm (nay thuộc xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn).

An táng

Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung.

Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho xây Lăng Vĩnh Diên (永延陵; nay thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) đồng thời lập nhà thờ Đức Bà tại Đông Giáp, châu Đông Yên bên bờ Sài Thị Giang. Chúa cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang (nay thuộc xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn) lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ, phong cho ông Đoàn Công Quảng là Lễ Nghĩa Hầu Tiền Xung Bát Đội Chánh Đội trưởng, đảm đương việc này.

Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời Lê Hy Tông, tức năm Thái Tông Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà đã bị hủy hoại.

Năm 1744, chúa Nguyễn Thế Tông lên ngôi, truy thụy cho Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, và bà cũng được truy thụy thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi (貞淑慈靜惠妃).

Năm Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao hoàng đế đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu (貞淑慈靜敏睿惠敬孝昭皇后), phối thờ cùng Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan ở Thái Miếu tại Phú Xuân, án thứ 1 bên phải.

Bài sách văn dâng tôn thụy như sau:

::''Lễ nhà tôn miếu, kính người mình tôn, yêu người mình thân, là để báo công mà tôn đức vậy. ::''Kính nghĩ, Trinh Thục Từ Tĩnh Đoàn Huệ phi điện hạ: Sáng thơm tú my, phép tốt trinh thuần. Khôn nguyên hợp đức, phong hóa gây từ đình vi, cảm động kết thai, Phước trạch truyền cho xã tắc. Để Phước yên tốt nối đời vô cùng. Nay, trên nhờ Phước thiêng, lại dựng nghiệp cả. Kính dâng huy chương, để tôn nền tốt. Cẩn tiến sách vàng dâng tôn hiệu là: "Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu", thờ chung vào gian hữu nhất nhà Thái Miếu.

Lăng mộ Đoàn Quý phi

Về phần Lăng mộ của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc, sách Đại Nam Nhất Thống Chí đã cho biết "Năm Gia Long thứ năm (1606) dâng tên lăng là Vĩnh Diên" để phân biệt với Lăng mộ của Hiếu Văn Hoàng Hậu Mạc Thị Giai là Vĩnh Diễn". Lăng Vĩnh Diên được nhân dân địa phương gọi là Lăng Trên còn Lăng Vĩnh Diễn thì gọi là Lăng Dưới.

Khoảng năm 1824, vua Minh Mạng đã cho xây dựng thêm ở giữa Lăng Vĩnh Diễn và Lăng Vĩnh Diên một ngôi chùa làm nơi thờ cúng cho hai Hoàng Hậu, gọi là Chùa Vĩnh An mà nhân dân địa phương thường gọi là Chùa Vua hay Chùa Ngự. Dưới thời Triều Nguyễn hàng năm, các vua Nhà Nguyễn đều đến cung yết Lăng mộ hai Hoàng Hậu và Chùa Vĩnh An tại xã Duy Trinh.

Bên cạnh việc mai táng mẫu hậu một cách chu đáo, xây Lăng Vĩnh Diên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần còn xây dựng Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu tại thôn Đông giáp, làng Đông Yên bên bờ sông Thu Bồn, gần sát với Dinh trấn Thanh Chiêm, nay thuộc thôn Đông Khương 2, xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn.

Trận lụt lớn sông Thu Bồn năm Canh Thân 1680 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần năm thứ 32 đã làm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị hoàn toàn hủy hoại do đất bị sạt lở ở ngay giữa làng Đông Yên.

Đến dưới thời Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) vào khoảng năm 1730, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã được xây dựng lại lần thứ hai trên đất Đông Yên và lùi xa bờ sông Thu Bồn. Một thời gian sau,  do bờ sông Thu Bồn tiếp tục bị sạt lở, làm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị hư hại phần tiền sảnh.

Sau khi chiếm Xứ Quảng vào cuối năm 1774, quân Tây Sơn đã triệt phá hoàn toàn Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và Chùa Bảo Châu Sơn Tự ở Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên) do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1617. Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, vua Gia Long (1802 – 1820) đã cho xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu khang trang hơn trước tại Bãi Bắc ở Đông Yên Đông.

Đến năm Nhâm Thìn 1894, dưới thời vua Thành Thái (1889 – 1907) nhà vua đã cấp 1.000 lạng bạc để xây lại phần hậu tẩm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp và dưới thời vua Bảo Đại (1926- 1945), Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu cũng đã được trùng tu năm 1930.

Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp nặng, Hội đồng Gia tộc Đoàn tộc Quảng Nam đã vận động bà con đóng góp tài chính và đã tiến hành đại trùng tu, làm cho Nhà thờ Đức Bà Chiếu Chiêu Hoàng Hậu được khang trang như ngày nay.

Về Chùa Vĩnh An, sau cách mạng tháng 8.1945, do không có người chăm sóc đã dần dần bị hư hại hoàn toàn. Về Lăng Vĩnh Diên của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đến nay đã bị xuống cấp nặng như báo chí ở địa phương và trung ương đưa tin và đề nghị chính quyền tỉnh Quảng Nam quan tâm khắc phục, bởi vì đây là một di tích văn hóa lịch sử cổ xưa nhất của Nhà Nguyễn còn tồn tại đến nay trên đất Quảng Nam và đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa của tỉnh.

Lăng mộ Đoàn quý phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh từ năm 2005. Đây là lăng mộ cổ xưa nhất thời các chúa Nguyễn ở phía Nam, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà.

Đường phố- Trường học

  • Ở Thành phố Đà Nẵng và Quảng Nam, Việt Nam đều đường phố mang tên Đoàn Quí Phi
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
Một **Quỹ** phi lợi nhuận (còn gọi là **Quỹ từ thiện**) là một loại pháp nhân của tổ chức phi lợi nhuận sẽ thường tặng tiền và hỗ trợ cho các tổ chức khác hoặc
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Đoan Hòa Hoàng quý phi Vương thị** (chữ Hán: 端和皇貴妃王氏, ? - 1553), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà nổi tiếng là cùng Trang Thuận hoàng quý phi
**Cung Thục Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭淑皇貴妃, 1611 - 1642) hay **Điền Quý phi** (田貴妃), là phi tần rất được sủng ái của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Đoan Thuận phi** (chữ Hán: 端順妃; ? - 1709), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Tiểu sử Đoan Thuận phi xuất thân
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Vinh An Hoàng quý phi Diêm thị** (chữ Hán: 榮安皇貴妃阎氏, ? - 1541), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà là Hoàng quý phi đầu tiên của Minh Thế
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Nhất giai Quý phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 一階貴妃 阮氏; ? – 1885), không rõ tên húy, nguyên là chính thất của vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà mất sau
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
**Hiếu Tĩnh Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝靖皇太后; 27 tháng 2, 1565 - 18 tháng 10 năm 1611) còn được gọi là **Vương Cung phi** (王恭妃), là Hoàng quý phi của Minh Thần Tông Vạn
**Hiếu Kính Thái hoàng thái hậu Lý thị** (chữ Hán: 孝敬太皇太后李氏, ? - 1597), thường gọi là **Cung Thuận Hoàng quý phi Lý thị** (恭顺皇贵妃李氏) hay **Lý Quý phi** (李李氏) là một phi tần của
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (_chữ Hán_:恭顺皇贵妃) là thụy hiệu của một số vị quý phi trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Thần Tông Cung Thuận hoàng
huyết thanh dương quý phi dova , sản phẩm siêu phục hồi cho da sau tái tạo cũng như da thường.thành phần hoàn toàn từ thiên nhiên, phù hợp với mọi loại da.shop cam kết
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
Các **quỹ phòng hộ**, **quỹ tự bảo hiểm rủi ro** hay **quỹ đối xung** (hedge fund) là các quỹ đầu tư tư nhân được quản lý chủ động. Họ đầu tư vào một phạm vi
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Mặt trận Bắc Phi** hay **chiến trường Bắc Phi** là một trong những mặt trận chính của chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại vùng sa mạc Bắc Phi từ ngày 10 tháng
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Phí Y** (費偉) hoặc **Phí Huy** (費褘) (? - 16 tháng 2, 253), tự là **Văn Sĩ** (文偉), là đại thần của nước Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Ông làm nhiếp chính cho
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Trang phi Vương Giai thị** (chữ Hán: 莊妃王佳氏; ? - 1811), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc. Tuy không có con cái, nhưng từ
**Thư phi Diệp Hách Lặc thị** (chữ Hán: 舒妃叶赫勒氏, 1 tháng 6 năm 1728 - 30 tháng 5 năm 1777), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long
**Tào Đoan phi** (chữ Hán: 曹端妃; ? – 1542), là một phi tần được đắc sủng của vua Minh Thế Tông thời nhà Minh trong lịch sử Trung Hoa. Tào thị vì có liên đới
**Đường Huyền Tông Võ Huệ phi** (chữ Hán: 唐玄宗武惠妃, ? - 737), còn gọi là **Trinh Thuận Hoàng hậu** (貞順皇后), là một sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, vị Hoàng đế thứ
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Cúp bóng đá châu Phi 2021** (còn được gọi là **AFCON 2021** hoặc **CAN 2021**) là Cúp bóng đá châu Phi lần thứ 33, diễn ra tại Cameroon từ ngày 9 tháng 1 đến ngày
Một trung đoàn của Anh **Trung đoàn** (tiếng Anh: Regiment) là một đơn vị trong quân đội có quy mô nhỏ hơn sư đoàn nhưng lớn hơn tiểu đoàn, thường gồm hai đến năm tiểu