✨Cung Thuận Hoàng quý phi (Gia Khánh)

Cung Thuận Hoàng quý phi (Gia Khánh)

Cung Thuận Hoàng quý phi (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.

Xuất thân hiển hách, Cung Thuận Hoàng quý phi trải qua 3 triều Gia Khánh, Đạo Quang và Hàm Phong, trở thành một trong những phi tần sống thọ nhất, và giữ địa vị phi tần cao nhất trong thời của bà.

Tiểu sử

trái|nhỏ|177x177px|Cung Thuận hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị

Hậu thế danh môn

Cung Thuận Hoàng quý phi sinh ra vào năm Càn Long thứ 52 (1787), xuất thân Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, là hậu duệ từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị của Hoằng Nghị công phủ Ngạch Diệc Đô, một thế gia hiển hách trong xã hội Mãn Thanh. Tuy không phải xuất thân dòng chính đại tông của Hoằng Nghị công phủ, song cũng là thế gia lưu giữ tước vị truyền đời. Tổ tiên của bà là con trai thứ 8 của Ngạch Diệc Đô, tên Đồ Nhĩ Cách (图尔格). Đồ Nhĩ Cách là danh thần có tiếng trước cả khi nhập quan, nhiều lần lập chiến công, phong làm Tam đẳng công (三等公), sau lại được xưng là Tam đẳng Quả Nghị Mưu Dũng công (三等果毅谋勇公), tạo ra 1 trong 2 chi đại tông của Quả Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc thế gia.

Tước vị của Đồ Nhĩ Cách truyền đến con trai Khoa Phổ Tác (科普索) thì bị cách tước, chuyển cho ấu đệ của Đồ Nhĩ Cách là Át Tất Long, do vậy dòng dõi đại tông Quả Nghị Mưu Dũng công do dòng của Át Tất Long truyền thừa. Con trưởng của Đồ Nhĩ Cách là Ngũ Nhĩ Cách (伍尔格), vì hi sinh chiến trận mà phong Kỵ đô úy (骑都尉), tước vị từ con cháu Ngũ Nhĩ Cách kế tục. Con cháu Ngũ Nhĩ Cách tuyệt tự, tước vị lại do con cháu của Khoa Phổ Tác là Xa Đặc Hồn (奢特珲) kế tục. Xa Đặc Hồn chính là cao tổ phụ của Cung Thuận Hoàng quý phi. Cụ nội của Cung Thuận Hoàng quý phi tên là Bác Sắc (博色), tập tước Kỵ đô úy, nhậm Nhất đẳng Thị vệ, sinh ra bốn con trai, trong đó con trai thứ 2 là Đạt Phúc (达福) tập tước vị, nhậm Phó Đô thống, con gái gả cho anh của Gia Khánh Đế là Chất Trang Thân vương Vĩnh Dung làm Kế Phúc tấn. Do vậy, tuy xét theo nhà chồng là chị dâu, nhưng xét theo gia tộc lại gọi là đường cô mẫu. Tổ phụ của Cung Thuận Hoàng quý phi là con trai thứ ba của Bác Sắc, tên Đạt Lộc (达禄).

Ngoài ra, Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu cũng xuất thân một chi Hoằng Nghị công phủ, tuy Hiếu Hòa Hoàng hậu có tôn vị Hoàng hậu, song xét về gia tộc lại thua Cung Thuận Hoàng quý phi một bậc. Xét về thứ bậc gia tộc cả hai là tộc tỉ muội.

Gia đình vọng tộc

Ông nội Đạt Lộc cưới Bích Lộ thị (碧鲁氏) làm chính thê, sinh duy nhất một con trai, chính là Thiện Khánh (善慶), cha của Cung Thuận Hoàng quý phi. Thiện Khánh ở năm Càn Long thứ 23 (1758), lấy "Bút thiếp thức" nhập sĩ, năm Gia Khánh thứ 2 thăng làm Chủ sự (主事), năm sau lại qua đời. Nguyên phối Phú Sát thị (富察氏), chính là Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Sa Tế Phú Sát thị đại gia tộc, là con gái Tri phủ Quan Đăng (官登), cháu gái của Nhị đẳng Đôn Huệ bá Mã Tề (马齐). Kế thất Dương thị thuộc Nội vụ phủ thế gia, là con gái Hình bộ Thị lang Kiền Lễ Bảo (虔礼保), cả hai đều sinh cho Thiện Khánh bốn con trai và ba con gái. Căn cứ theo Nữu Hoằng Nghị công gia phổ (钮弘毅公家谱), Phú Sát thị qua đời năm Càn Long thứ 46 (1781), do vậy chỉ có con trai cả Trường Liêm (长廉) là do Phú Sát thị sinh ra.

Con trai đầu của Thiện Khánh là Trường Liêm, sinh năm Càn Long thứ 45 (1780), là anh cả của Cung Thuận Hoàng quý phi, về sau cưới cháu gái trong tộc của mẹ đẻ. Con trai thứ Trường Văn (长文), sinh năm Càn Long thứ 53 (1788), và Trường Hỉ (长喜) sinh năm thứ 55 (1790), đều là hai em trai của Cung Thuận Hoàng quý phi. Con gái cả của Thiện Khánh chính là Cung Thuận Hoàng quý phi, con gái thứ 2 sinh năm Càn Long thứ 58 (1793), kém 6 tuổi so với bà, gả cho Bất nhập Bát phân Phụ quốc công, Hiệp bạn Đại học sĩ Kính Trưng (敬征), là con trai thứ tư của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích, em gái út sinh năm Gia Khánh thứ 2 (1797), gả làm vợ của Giác La Cảnh Khánh (觉罗景庆).

Em trai bà Trường Hỉ, cưới con gái của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích làm Chính Phu nhân, trong khi đó em gái thứ hai của bà gả vào làm dâu cho Túc Cung Thân vương. Trong khi đó, em gái thứ hai của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu gả cho Kính Tự (敬叙), là con trai thứ hai của Túc Cung Thân vương. Bên cạnh đó, gia tộc của Cung Thuận Hoàng quý phi 2 đời kết thông gia với Sa Tế Phú Sát thị, mà con gái của Quan Đăng là đích tiên mẫu của Cung Thuận Hoàng quý phi, trong khi đó cháu gái của Quan Đăng là tẩu tẩu của Cung Thuận Hoàng quý phi, mà huyền tôn nữ của Quan Đăng, chính là Thục Thận Hoàng quý phi của Thanh Mục Tông.

Đại Thanh tần phi

Quá trình nhập cung

Không rõ chính xác thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung, bà chỉ được ghi là nhập cung những năm đầu triều Gia Khánh (Gia Khánh sơ niên).

Theo mức độ thường thấy của Bát Kỳ tuyển tú, Nữu Hỗ Lộc thị phải từ 14 tuổi trở lên mới đủ điều kiện tuyển chọn tần phi, như vậy thời gian Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung là năm Gia Khánh thứ 5 (1800) hoặc Gia Khánh thứ 9 (1804), hai lần Bát Kỳ tuyển tú trước ghi nhận bà sinh nở đầu tiên sau khi nhập cung. Ở hai lần này, bà lần lượt là 13 tuổi cùng 17 tuổi, khả năng cao bà nhập cung năm thứ 9 hơn, và như thế thì Nữu Hỗ Lộc thị đã thuộc phạm vi Tú nữ lớn tuổi khi ấy. Ngay khi vừa nhập cung, Nữu Hỗ Lộc thị đã được phong làm Quý nhân, xưng hiệu là [Như; 如].

Năm Gia Khánh thứ 10 (1805), ngày 8 tháng 2, giờ Tuất, Như Quý nhân sinh được Hoàng bát nữ. Cùng lúc đó, Như Quý nhân được tấn lên Tần, xưng hiệu "Như" của bà cũng được phiên ra Mãn ngữ để dùng làm phong hiệu chính thức theo quy định. Căn cứ tài liệu Hồng xưng thông dụng (鸿称通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu "Như" Mãn văn là 「Dahashūn」, ý là Thuận theo, Vâng theo. Ngày 4 tháng 6 (âm lịch) cùng năm, lấy Lễ bộ Thượng thư Cung A Lạp (恭阿拉) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Hô Tố Thông A (瑚素通阿) làm Phó sứ, sách phong làm Như tần (如嬪).

Sách văn viết:

Vào tháng 11 cùng năm khi phong Tần, con gái Hoàng bát nữ của bà cũng qua đời, không có phong hiệu. Năm Gia Khánh thứ 15 (1810), tháng 9 (âm lịch), bà được phong làm Như phi (如妃), cư ngụ Vĩnh Thọ cung. Một năm sau, ngày 25 tháng giêng, bà sinh thêm được Hoàng cửu nữ, nhưng tới 4 tuổi thì Hoàng nữ cũng qua đời.

Năm Gia Khánh thứ 19 (1814), ngày 27 tháng 2, giờ Sửu, Như phi sinh được con trai duy nhất, Hoàng ngũ tử Miên Du.

Cuối đời an tĩnh

Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), tháng 7 (âm lịch), Gia Khánh Đế băng hà, Đạo Quang Đế kế vị. Tân Đế đăng cơ, ban phát chỉ dụ thưởng khắp triều đình, trong đó ân phong nhiều Hoàng tử của Tiên Đế, con trai Như phi là Miên Du tuy mới 5 tuổi cũng được dự, ân phong làm Đa La Huệ Quận vương. Bên cạnh đó, Đạo Quang Đế còn truy phong cho Hoàng cửu nữ đã chết yểu của Như phi tước vị Cố Luân Tuệ Mẫn Công chúa (固伦慧愍公主).

Ngày 23 tháng 8 (âm lịch) cùng năm, bà được Đạo Quang Đế tấn phong lên là Hoàng khảo Như Quý phi (皇考如貴妃), trú ngụ tại tại Thọ An cung (壽安宮). Ngày 20 tháng 12, lấy Lễ bộ Tả Thị lang Thư Minh (书铭) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Mao Mô (毛谟) làm Phó sứ, hành sách phong lễ. Năm Đạo Quang thứ 26 (1846), ngày 10 tháng 3, bà được tấn phong lên là Hoàng khảo Như Hoàng quý phi (皇考如皇貴妃). Ngày 10 tháng 12, lấy Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm (卓秉恬) làm Chính sứ, Lễ bộ Hữu Thị lang Uy Thập Nột (倭什讷) làm Phó sứ, hành sách phong lễ.

Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 22 tháng 1 (âm lịch), Hàm Phong Đế sau khi ra chỉ tấn phong Hoàng quý phi làm Hoàng quý thái phi, đồng thời cũng ra chỉ dụ tấn phong Như Hoàng quý phi làm Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi (皇祖如皇貴太妃). Sang năm Hàm Phong nguyên niên (1851), ngày 10 tháng 3 (âm lịch), mệnh Đại học sĩ Trác Bỉnh Điềm làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Liên Thuận (联顺) làm Phó sứ, hành sách phong lễ.

Sách văn viết:

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), ngày 3 tháng 3 (âm lịch), Như Hoàng quý thái phi Nữu Hỗ Lộc thị qua đời tại Viên Minh Viên, hưởng thọ 74 tuổi. Ngày hôm sau, di thể của bà liễm nhập kim quan. Sang ngày 22 tháng 5 cùng năm, giờ Mẹo, hành lễ dâng tặng thụy hiệu tại Cát An sở, thụy hiệu là Cung Thuận Hoàng quý phi (恭順皇貴妃). Ngày 19 tháng 8, kim quan của bà tạm an ở Sùng Các trang (崇各庄).

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 22 tháng 2, giờ Dần, kim quan của bà phụng di Thanh Tây lăng. Hàm Phong Đế dụ chỉ Nội vụ phủ Đại thần Minh Thiện (明善) tại Tị Thử sơn trang, mọi việc cần giản lược, đem tùy theo kim quan của tần phi Đạo Quang Đế là Thường phi tùy đến Thanh Tây lăng luôn thể. Kim quan của Cung Thuận Hoàng quý phi để ở gian thứ, đại điện phía đông. Ngày 27 tháng 2, an táng địa cung ở Xương lăng (昌陵).

Hậu duệ

Cung Thuận Hoàng quý phi sinh hạ 1 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ:

Hoàng bát nữ (皇八女), sinh ngày 8 tháng 2 năm Gia Khánh thứ 10 (1805), mất khoảng tháng 11 cùng năm.

Cố Luân Tuệ Mẫn Công chúa (固伦慧愍公主; 25 tháng 11 năm 1811 - tháng 5 năm 1815), mất khi chỉ mới 5 tuổi. Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), Đạo Quang Đế gia tặng làm ["Cố Luân Công chúa"], cùng với chị khác mẹ Hòa Thạc Tuệ An Công chúa an táng vào mộ của Lương Các trang.

Miên Du (绵愉; 8 tháng 3, năm 1814 - 9 tháng 1, năm 1865), Hoàng tử thứ năm của Gia Khánh Đế. Thụy Huệ Đoan Thân vương (惠端亲王).

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Khánh Cung Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慶恭皇貴妃; 12 tháng 8 năm 1724 - 21 tháng 8 năm 1774), Lục thị (陆氏), người Hán, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Trang phi Vương Giai thị** (chữ Hán: 莊妃王佳氏; ? - 1811), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc. Tuy không có con cái, nhưng từ
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Trang Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊靜皇貴妃; 27 tháng 2 năm 1838 - 15 tháng 11 năm 1890), thường được gọi là **Lệ phi** (麗妃), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Thanh Nhân Tông** (chữ Hán: 清仁宗, 13 tháng 11 năm 1760 – 2 tháng 9 năm 1820), Tây Tạng tôn hiệu **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Thanh
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Hoa phi Hầu Giai thị** (chữ Hán: 华妃侯佳氏, ? - 1804), cũng gọi **Hầu thị** (侯氏), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một
**Đồng Quý phi Thư Mục Lộc thị** (chữ Hán: 彤貴妃舒穆魯氏; 1817 - 1877), là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. ## Tiểu sử ### Nhập cung làm Phi Thư Mục Lộc
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Tần** (chữ Hán: 嬪; Hangul: 빈; Kana: ひん), còn gọi **Cung tần** (宮嬪), là một cấp bậc phi tần trong hậu cung của Quốc vương hoặc Hoàng đế. Danh xưng này tồn tại ở các
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
nhỏ|295x295px|Trữ Tú Cung **Trữ Tú cung** (, , ) là một trong sáu cung nằm ở Tây lục cung, thuộc Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Từ thời Gia Khánh Đế, cung điện này nổi tiếng
**Phương phi Trần thị** (chữ Hán: 芳妃陳氏, 24 tháng 9, năm 1750 - 13 tháng 8, năm 1801), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Tiểu sử ### Trở thành
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
thumb|thumb|Quang Liệt Hoàng hậu [[Âm Lệ Hoa - Hoàng hậu thứ hai của Hán Quang Vũ Đế. Bà từng là Quý nhân trước khi trở thành Hoàng hậu.]] **Quý nhân** (chữ Hán: 貴人; Bính âm:
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Tuần Quý phi Y Nhĩ Căn Giác La thị** (chữ Hán: 循贵妃伊爾根覺羅氏; 29 tháng 10 năm 1758 - 10 tháng 1 năm 1798), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ##
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Thâm Cung Nội Chiến**, tên gốc là **Kim Chi Dục Nghiệt** (tiếng Trung: 金枝慾孽, tiếng Anh: _War and Beauty_) là một bộ phim truyền hình khởi chiếu lần đầu trên TVB Jade từ 23 tháng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.