✨Triết Mẫn Hoàng quý phi

Triết Mẫn Hoàng quý phi

Triết Mẫn Hoàng quý phi (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.

Gia thế

Triết Mẫn Hoàng quý phi không rõ ngày, tháng, năm sinh, mang họ Phú Sát thị, tuy nhiên không hề liên quan gì đến hay thuộc dòng dõi của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu như một số hiểu lầm. Theo Bát Kỳ Mãn Châu thị tộc tông phổ (八旗滿洲氏族通譜), tộc của Triết Mẫn Hoàng quý phi vốn cư trú ở Cát Ha Lý (噶哈里) và La Xá Lâm (羅舍林), còn tộc của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu thế cư Sa Tế, một đại gia thế thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, địa vị xã hội chênh lệch nhiều. Tổ tiên của Triết Mẫn Hoàng quý phi, gọi là Ni Nhã Đường Ngạc (尼雅唐鄂), ước khoảng đến đời cháu hoặc chắt được nhập Bát kỳ. Phụ thân của bà là Ông Quả Đồ (富察翁果圖), là cháu 7 đời của Ni Nhã Đường Ngạc, giữ chức Tá lĩnh (佐領), lại có Bộ quân giáo (步軍校), Bút thiếp thức (筆帖式) các vị trí, đều là quan viên trung cấp. Như vậy, Triết Mẫn Hoàng quý phi cũng được coi là con nhà quan lại.

Trong Khâm định Bát Kỳ thông chí (欽定八旗通志), gia tộc của Triết Mẫn Hoàng quý phi lại được ghi là Ông Quả Đồ nhậm Bao y Tá lĩnh (包衣佐領), trước đó từng nhậm Bao y đại (包衣大), nếu truy xét ra thì gia tộc xếp vào Chính Hoàng kỳ Bao y Quản lĩnh hạ nhân (正黃旗包衣的管領下人), thuộc người trong Tân giả khố. Có nhiều khả năng suy đoán, gia tộc Phú Sát thị được chia ra, một ở Đông Bắc và một ở Kinh Kỳ phân làm hai nhánh. Trong đó, nhánh ở Đông Bắc là Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, nhậm chức Tá lĩnh, Phòng ngự, Hiệp lãnh có từ đời tổ tiên, còn Phú Sát thị ở Kinh Kỳ lại là Chính Hoàng kỳ Bao y, kỳ tịch có khác biệt đôi chút so với tộc Đông Bắc Phú Sát thị.

Hoàng tứ tử thiếp

Với thân phận Chính Hoàng kỳ Bao y, tức thuộc Thượng tam kỳ Nội vụ phủ, Phú Sát thị trở thành hầu cận trong Hoàng thất, vì vậy có lẽ sau đó trở thành thiếp thất trong Vương phủ của Bảo Thân vương Hoằng Lịch, phân vị Cách cách. Bà là người đầu tiên vào phủ của Bảo Thân vương.

Vào năm Ung Chính thứ 5 (1727), ngày 18 tháng 7 (âm lịch), Bảo Thân vương lập Đích phi Phú Sát thị. Khi đó Cách cách Phú Sát thị đã mang thai, do vậy vào ngày 28 tháng 5 (tức ngày 5 tháng 7 dương lịch) năm sau (1728), bà hạ sinh Hoàng trưởng tử Vĩnh Hoàng. Đến năm Ung Chính thứ 9 (1731), tháng 4 (âm lịch), Phú Sát thị sinh người con thứ hai cho Tứ a ca Hoằng Lịch, là một công chúa nhưng đến tháng 12 (âm lịch) cùng năm thì chết yểu.

Vào năm Ung Chính thứ 12 (1734), Ung Chính Đế ban Cao thị và Na Lạp thị trở thành Trắc Phúc tấn của Bảo Thân vương.

Theo lệ của cung đình Mãn Thanh, Hoàng tử chỉ có 2 Trắc Phúc tấn theo cách là được chỉ định trong Bát kỳ Tuyển tú, hoặc là hầu nữ sinh được con cái cũng có thể thỉnh phong. Na Lạp thị xuất thân Tương Lam kỳ, được chỉ định trong Bát kỳ Tuyển tú, còn Cao thị đã vào phủ làm hầu nữ cho Hoằng Lịch (có lẽ cùng thời điểm với Phú Sát thị), nhưng Cao thị luôn không có thai mà vẫn được ban làm Trắc Phúc tấn, trong khi Phú Sát thị sinh hạ con trai cả lại không được như vậy.

Theo chỉ dụ khi Hoằng Lịch đăng cơ: ["Chỉ có Cách cách sinh được con mới có tư cách thỉnh phong làm Trắc Phúc tấn"], đã dẫn đến suy đoán trong thời gian Ung Chính Đế còn tại vị, Hoằng Lịch đã từng thỉnh phong một Cách cách đã sinh hạ con trai nhưng lại bị Ung Chính Đế từ chối, và Phú Sát thị là người có khả năng nhất. Về nguyên nhân này, theo nhiều suy đoán cùng biểu hiện cho thấy Ung Chính Đế đang trọng dụng Cao Bân, cha của Cao thị, nên ngoài việc để lại chức Trắc Phúc tấn cho Cao thị, thì chỉ định Na Lạp thị thay thế để Phú Sát thị không thể trở thành Trắc Phúc tấn được nữa. Xét tỉ mỉ mà nói, cả Phú Sát thị và Cao thị đều là Bao y, mà Phú Sát thị vốn là người Mãn, nếu Phú Sát thị trở thành Trắc Phúc tấn thì địa vị sẽ vượt qua Cao thị - người đang được Ung Chính Đế coi trọng.

Truy tặng

Năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 7 (âm lịch), Cách cách Phú Sát thị qua đời. Một tháng sau Bảo thân vương Hoằng Lịch đăng cơ, sử gọi là [Càn Long Đế].

Năm Càn Long nguyên niên (1736), vào tháng 10, Càn Long Đế truy phong Cách cách Phú Sát thị thụy hiệu Triết phi (哲妃). Lúc này hậu cung chưa công bố danh phận, việc lập Đích phi Phú Sát thị làm Hoàng hậu, hay phong các phi tần khác của Càn Long Đế đều diễn ra vào năm Càn Long thứ 2 (1737). Căn cứ theo Thượng dụ đương thì Triết phi Phú Sát thị được truy tặng tước hiệu còn trước cả các phi tần khác. Điều này thể hiện vị thế rất đặc biệt của Triết phi đối với Càn Long Đế.

Năm Càn Long thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1 (âm lịch), Càn Long Đế ra chỉ dụ phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi. Sang ngày 24 tháng 1 (âm lịch), một ngày trước khi Hoàng quý phi Cao thị qua đời (tức ngày 25 tháng 1), Hoàng đế hạ chỉ truy phong Triết phi Phú Sát thị cùng vị Hoàng quý phi. Sang ngày 26 tháng 1, sau khi Hoàng quý phi Cao thị vừa mất, Càn Long Đế chính thức viết thụy hiệu cho Hoàng quý phi Phú Sát thị là Triết Mẫn Hoàng quý phi (哲憫皇貴妃), tháng 4 năm đó khiển quan làm lễ sách thụy, tế cáo Thái Miếu và Phụng Tiên điện. Theo Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用), thụy hiệu "Triết" có Mãn văn là 「Getuken」, ý là "can tịnh", "rõ ràng", có liên hệ với 「Ulhisu」nghĩa là "thông minh". Về sau, lại gia thêm "Mẫn", Mãn văn là「Hairacuka」, nghĩa là "đáng tiếc".

Năm Càn Long thứ 17 (1752), ngày 27 tháng 10, Triết Mẫn Hoàng quý phi được an táng vào địa cung Dụ lăng tại Thanh Đông lăng, Bắc Kinh. Bà là một trong 5 vị hậu phi được cùng an táng ở địa cung của Dụ lăng với Càn Long Đế, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi cùng Thục Gia Hoàng quý phi. Thần vị của bà được thờ trong Long Ân điện (隆恩殿), thuộc phía Tây Noãn các, phía Đông của thần vị Tuệ Hiền Hoàng quý phi, còn phía Tây là Thục Gia Hoàng quý phi.

Hậu duệ

  • Vĩnh Hoàng (永璜) (5 tháng 7, 1728 - 21 tháng 4, 1750) sinh năm Ung Chính thứ 6, mất năm Càn Long thứ 15. được truy phong làm Định An Thân vương.
  • Hoàng nhị nữ (皇二女) (1731) chết yểu.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Vĩnh Hoàng** (chữ Hán: 永璜; ; 5 tháng 7 năm 1728 - 21 tháng 4 năm 1750), Ái Tân Giác La, là Hoàng trưởng tử của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Thân phận Hoàng
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Thái tử phi** (chữ Hán: 太子妃), là một danh hiệu dành cho chính thê của Thái tử. Danh hiệu này thường được hiểu là hôn phối của Hoàng thái tử, còn gọi đầy đủ là
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
thumb|[[Mân Quý phi Từ Giai thị, từng bị giáng xuống làm Quan nữ tử.]] **Quan nữ tử** (chữ Hán: 官女子), cũng gọi **Cung nữ tử** (宮女子), là danh từ dùng để gọi các cung nữ,
**Hiền phi** (chữ Hán: 賢妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. ## Một số nhân vật nổi tiếng ### Trung Quốc Dưới thời
**Di tần Bách thị** (chữ Hán: 怡嫔柏氏, 1721 - 1757), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Thân thế Di tần là người Giang Tô, xuất thân thường dân không
**Hoằng Trú** (chữ Hán: 弘晝; ; 5 tháng 1 năm 1712 - 2 tháng 9 năm 1770), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 5 tính trong số những Hoàng tử trưởng thành của
**Vĩnh Thành** (; 21 tháng 2 năm 1739 – 5 tháng 4 năm 1777), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 4 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Cuộc đời Hoàng tử
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi** (chữ Hán: 敏惠恭和元妃; 1609 – 1641), được biết đến với tên gọi **Hải Lan Châu** (海蘭珠), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thái Tông Hoàng
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Thanh Dụ lăng** (chữ Hán: 清裕陵), là một lăng tẩm tại Trung Quốc, nơi chôn cất Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế - vị Hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Thanh. ##
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Đường Huyền Tông Võ Huệ phi** (chữ Hán: 唐玄宗武惠妃, ? - 737), còn gọi là **Trinh Thuận Hoàng hậu** (貞順皇后), là một sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, vị Hoàng đế thứ
**Khang Huệ Thục phi** (chữ Hán: 康惠淑妃), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tương truyền có tên **Ba Đặc Mã Tảo** (巴特瑪璪), trước là thiếp của Lâm Đan Hãn, sau trở thành phi tần của
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Triều Tiên Triết Tông** (25 tháng 7, 1831 - 16 tháng 1, 1864) tên thật là **Lý Biện** (Yi Byeon; 李昪), là vị vua thứ 25 của nhà Triều Tiên, cai trị từ năm 1849
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Thánh Thuần Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖純皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Hiến Tông Thánh Thuần hoàng hậu
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng