✨Chiêu Hoài Hoàng hậu

Chiêu Hoài Hoàng hậu

Chiêu Hoài Hoàng hậu (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là Nguyên Phù Hoàng hậu (元符皇后) hoặc Sùng Ân Thái hậu (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.

Bà vốn là sủng phi của Tống Triết Tông, nhưng tính tình kiêu căng ngạo mạn, vô cùng tàn độc, xem thường lễ giáo, nhiễu loạn cung quy, hãm hại Hoàng hậu đầu tiên của Tống Triết Tông là Chiêu Từ Thánh Hiến Mạnh Hoàng hậu nhằm soán ngôi. Dưới thời Tống Huy Tông, bà được gia ân tôn làm Thái hậu, nhưng không phải Hoàng thái hậu.

Tiểu sử

Hoàng hậu họ Lưu (劉), không rõ tên thật, dã sử gọi là Thanh Tinh (清菁), cũng không rõ quê quán ở đâu. Tằng tổ Lưu Vịnh (劉泳), tặng Thái tử Thiếu bảo, sau lên Thái tử Thái bảo; tằng tổ mẫu Cảnh thị (耿氏) tặng Hàm Ninh Quận Thái phu nhân, sau cải lên Phúc Quốc. Tổ phụ là Lưu Chí (劉志), trước tặng Thái tử Thiếu phó, sau lên Thái tử Thái phó; tổ mẫu Thời thị (時氏) tặng Đại Ninh Quận Thái phu nhân, lại thăng Cát Quốc. Thân phụ là Lưu An Thành (刘安成), tặng Thái tử Thiếu sư, sau tặng Thái tử Thái sư, tước Đông Bình quận vương. Đích mẫu Thời thị (時氏) trước tặng làm Hòa Chính Quận phu nhân, sau tặng Vĩnh Quốc Thái phu nhân; sinh mẫu Vương thị (王氏) trước được truy tặng làm Vĩnh Gia Quận Thái phu nhân, sau cải phong tặng thành Khang Quốc Thái phu nhân.

Ban đầu Lưu thị vào cung làm Ngự thị (御侍). Do thông minh lanh lợi, có nhan sắc, được sử sách ghi nhận: ["Minh diễm quan hậu đình, đa tài đa nghệ"; 明豔冠後庭,且多才藝], nhanh chóng chiếm được sự sủng ái của Tống Triết Tông. Bà cũng rất được lòng sinh mẫu của Tống Triết Tông là Chu Hoàng thái phi. Năm Thiệu Thánh nguyên niên (1094) được tấn phong làm Bình Xương quận quân (平昌郡君). Năm thứ 2 (1095), tháng 5 tấn phong Mỹ nhân, sang tháng 10 lại phong Tiệp dư. Đắc sủng không lâu, Lưu Tiệp dư sinh được Hoàng nữ thứ 3 của Triết Tông là Tần quốc Khang Ý Trưởng công chúa. Tuy là con gái nhưng vì mẹ được sủng nên công chúa cũng được Triết Tông hết mực yêu quý.

Trước khi sủng ái Lưu Tiệp dư, Triết Tông đã nghe lời Tuyên Nhân Thái hoàng thái hậu, lập cháu gái của Thái úy Mạnh Nguyên là Mạnh thị làm Hoàng hậu. Lưu Tiệp dư cậy sủng nên kiêu căng ngạo mạn, xem thường Mạnh hoàng hậu.

Hãm hại Hoàng hậu

Năm Thiệu Thánh thứ 3 (1096), theo lệ thì Hoàng hậu và các phi tần đến tế ở Cảnh Linh cung, lễ xong thì Hoàng hậu và các phi tần được ngồi. Lưu Tiệp dư không thèm để ý, một mình bỏ đi xem hoa, ai cũng lấy làm bất bình. Đến mùa đông cùng năm, Mạnh hậu dẫn các phi tần đến Long Hựu cung yết kiến Khâm Thánh Thái hậu Hướng thị. Mạnh hoàng hậu theo lệ được ngồi ở ghế trên, các phi tần phải ngồi ở hai bên. Lưu tiệp dư không ngồi, mặt biến sắc; người hầu lấy ghế của Tiệp dư đặt ngang chỗ Mạnh hậu, Tiệp dư mới chịu ngồi. Lưu thái hậu vào cung, phi tần đứng dậy thỉnh an, Tiệp dư toan ngồi thì chiếc ghế bị dẹp mất, khiến bà ngã sóng xoài; sau đó về khóc lóc với Triết Tông. Lưu Tiệp dư dần có hiềm khích với Mạnh hậu, tìm cách lật đổ, bèn cùng Nội thị Hác Tùy (郝隨) liên lạc với Chương Đôn, Thái Kinh bên ngoài.

Mùa thu năm ấy, con gái Mạnh Hoàng hậu là Phúc Khánh công chúa bị bệnh; chị gái bà thường ra vào cung cấm, biết chuyện đó liền đi xin một lá bùa trừ tà cho công chúa và mời đạo sĩ vào cung làm phép. Mạnh hậu biết chuyện, sợ mang vạ nên nói lại với Triết Tông. Hoàng đế ban đầu cho là chuyện thường tình của con người, không trách tội gì, Mạnh hậu bèn đốt lá bùa trước mặt Triết Tông. Tuy nhiên, tin tức này đã lan truyền trong cung, lời dị nghị nổi lên. Không bao lâu sau, Phúc Khánh công chúa qua đời, lại có người của Lưu Tiệp dư đến tố cáo mẹ nuôi của bà là Thính Tuyên phu nhân Yến thị cầu khấn trong Tam Mạo am, xin cho Mạnh hậu sớm sinh được Hoàng tử. Lưu tiệp dư tung tin trong cung rằng Mạnh hậu dùng bùa chú, tà thuật với ý đồ xấu. Một hôm, Nội thị Hác Tùy lại đến tố cáo Mạnh hậu làm phép trong am, Triết Tông sai Nhập nội áp ban Lương Tùng Chánh (梁從政) và Quản đương ngự dược viện Tô Khuê (蘇珪) đến bắt hoạn quan, cung nữ hơn 30 người, giao cho bọn Thị ngự sử Đổng Đôn Dật (董敦逸) tra hỏi, nhưng không ai chịu khai gian. Đôn Dật bị Chương Đôn (章惇) uy hiếp, phải làm một bản khẩu cung giả trình lên. Tháng 9 năm ấy, ngày Ất Mão, Tống Triết Tông hạ chiếu phế bỏ Mạnh hậu, đày ra Diêu Hoa cung (瑤華宮), hiệu Hoa Dương giáo chủ (華陽教主), Ngọc Thanh Diệu Tĩnh tiên sinh (玉清妙靜仙師), pháp danh Xung Chân (沖真).

Sách lập Hoàng hậu

Năm Thiệu Thánh thứ 4 (1097), sau khi sinh hạ Dương Quốc công chúa, Lưu Tiệp dư được thăng lên Hiền phi (賢妃). Năm Nguyên Phù năm thứ 2 (1099), ngày 8 tháng 8, Lưu Hiền phi hạ sinh Hoàng tử Triệu Mậu (趙茂), Tống Triết Tông đại hỉ.

Tháng 9, trăm quan dâng sớ chúc mừng, đề nghị Hoàng đế lập Lưu Hiền phi làm Kế hậu, Triết Tông đồng ý. Ngày Đinh Mùi tháng ấy (8), Triết Tông hạ chiếu nghị lập Lưu Hiền phi làm Hoàng hậu. Về việc này, quan chánh ngôn Trâu Hạo (鄒浩) dâng sớ nói Lưu Hiền phi hại Mạnh hậu đến nỗi bị phế, thì không nên cho chính vị cung trung. Sớ viết:

Đại ý của Trâu Hạo dẫn lại việc Quách hoàng hậu của Tống Nhân Tông bị phế, là do cùng Thượng Mỹ nhân tranh chấp, cả Hậu và Mỹ nhân sau đó đều bị tội. Mạnh hậu không tội, tức Hiền phi có tội, đáng phế không hết, nay lại được lập Hậu. Bên cạnh đó, các triều đều tuyển nữ nhi nhà gia thế để lập Hậu, hiếm khi tấn phong phi tần làm chính thê, nếu lập Hiền phi làm Hậu tắc sẽ tổn hại nghi chế. Tuy nhiên, Tống Triết Tông đem việc Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu trước kia để bác bỏ, cho rằng Trâu Hạo lời lẽ ngông cuồng quá quắc. Trâu Hạo sau đó bị bọn Chương Đôn vu tội rồi bị đuổi khỏi triều đình. Ngày Bính Dần tháng ấy (27), Triết Tông ngự Văn Đức điện, sách lập Lưu Hiền phi làm Hoàng hậu, chiếu như lệ cũ của Mạnh hậu.

Trước đó, vào ngày Kỷ Mùi (20), 7 ngày trước khi lễ sách lập Hoàng hậu diễn ra, Hoàng tử Triệu Mậu qua đời khi chỉ mới hơn một tháng tuổi. Rồi sau lễ sách lập hai ngày (29), con gái của Lưu Hoàng hậu là Dương Quốc công chúa cũng chết yểu. Lưu Hoàng hậu khóc than thương tâm trong cùng 1 tháng mất cả 2 đứa con, Tống Triết Tông bi thương nên sinh bệnh.

Thời kỳ góa phụ

Năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), mùa xuân, ngày Kỷ Mão, Tống Triết Tông đột ngột băng hà khi chỉ vừa 25 tuổi. Tình thế đó khiến Hướng thái hậu chủ trì đại cuộc, lập Đoan vương Triệu Cát làm Tân đế, tức Tống Huy Tông. Ngày Tân Tị, Lưu hậu với thân phận Hoàng tẩu nên không tôn Hoàng thái hậu mà được phong Nguyên Phù Hoàng hậu (元符皇后).

Bấy giờ, Hướng thái hậu thông qua quan Thượng thư Tả bộc xạ Hàn Trung Ngạn (韓忠彥), dâng sớ tâu rằng Phế hậu Mạnh thị vô tội, nên phục hồi địa vị. Tống Huy Tông cho đón Phế hậu về cung, phục vị Hoàng hậu, phong làm Nguyên Hựu Hoàng hậu (元祐皇后). Việc này khiến Nguyên Phù Hoàng hậu vô cùng căm phẫn.

Năm sau (1101), mùa xuân, Hướng thái hậu qua đời, phe Tân pháp lại được dịp nổi lên, trừ bỏ phe Thủ cựu. Nguyên Phù Hoàng hậu căm ghét việc Mạnh hậu phục vị nên giật dây Thái Kinh dâng tấu lên Tống Huy Tông, nói Nguyên Hựu Hoàng hậu không đáng phục vị, Huy Tông bất đắc dĩ phải đưa Nguyên Hựu Hoàng hậu trở lại Diêu Hoa cung. Nguyên Phù Hoàng hậu còn căm ghét Trâu Hạo chuyện can giáng việc lập Hậu khi trước, bèn ngầm ám thị Thái Kinh kiếm một bản sớ trước kia của Hạo tố cáo: "Lưu hậu đoạt con của Trác thị. Giết mẹ đoạt con, dối người nhưng không dối được trời" và bảo Trâu Hạo là kẻ điên cuồng. Tống Huy Tông nổi giận, cho rằng Trâu Hạo phỉ báng Tiên đế và Nguyên Phù Hoàng hậu, bèn đày Trâu Hạo ra an trí ở Vĩnh Châu.

Năm Sùng Ninh thứ 2 (1103), tháng 2, Tống Huy Tông tôn Nguyên Phù Hoàng hậu làm Thái hậu, do trú ở Sùng Ân cung nên cũng gọi thành Sùng Ân Thái hậu (崇恩太后). Danh xưng [Thái hậu] của bà không phải phong hiệu [Hoàng thái hậu] - sinh mẫu hay đích mẫu của Hoàng đế, vì bà chỉ là hoàng tẩu của tiên đế đời trước. Lưu thái hậu từ khi đó sinh kiêu ngạo quá độ, muốn can dự cả việc bên ngoài, tư thông với nhiều người. Khi Tống Huy Tông bị bệnh, mưu đồ can dự chính sự dã tâm. Quần thần bất mãn ngày càng nhiều, có người bí mật tâu lên Tống Huy Tông khiến Hoàng đế không vui.

Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), tháng 2, Tống Huy Tông bàn định quần thần, chuẩn bị nghị phế. Ngày Tân Mão (9), Sùng Ân Thái hậu uất ức treo cổ tự tử, khi 35 tuổi. Tháng 4, sách thụy là Chiêu Hoài Hoàng hậu (昭懷皇后), sang tháng 5 ngày Bính Ngọ (27) thì được táng vào Vĩnh Thái lăng (永泰陵) và sang tháng 6 thì thăng phụ thần chủ lên Thái Miếu bên cạnh thần vị của Tống Triết Tông.

Hậu duệ

Lưu Hoàng hậu hạ sinh cho Tống Triết Tông 1 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ:

Tần Quốc Khang Ý Trưởng công chúa [秦國康懿長公主; 11 tháng 6, 1096 - 30 tháng 8, 1164], con gái thứ 3 của Tống Triết Tông.
Sinh vào năm Thiệu Thánh thứ 3, tháng 6. Năm Thiệu Thánh thứ 4 (1097), phong làm Ý Khang công chúa (懿康公主), từ nhỏ rất được Đế-Hậu thương yêu chiều chuộng. Tống Huy Tông tức vị, cải thành Gia Quốc công chúa (嘉國公主) rồi Khánh Quốc công chúa (慶國公主). Năm Chính Hòa thứ 2 (1112), cải thành Hàn Quốc công chúa (韓國公主), hạ giá lấy Phan Chánh Phu (潘正夫), hậu duệ dòng dõi Khai quốc công thần Phan Mỹ. Năm sau, quy chế mới định ra, công chúa được cải phong Thục Thuận Đế cơ (淑慎帝姬). Công chúa hạ giá Phan gia, giữ đạo tiết nghĩa, với phu quân phi thường ân ái, được gọi là ["Hoàng thất hiền cơ"; 皇室贤姬]. Thời Sự kiện Tĩnh Khang, công chúa lưu tại Biện Kinh cùng Hiền Đức Ý Hành Đại Trưởng công chúa - con gái của Tống Nhân Tông. Sau Nam Tống tái lập, phế bỏ Đế cơ chế độ, cải phong Ngô Quốc Trưởng công chúa (吳國長公主), tạm cư Vụ Châu. Tống Hiếu Tông tức vị, tiến phong Tần Quốc Đại Trưởng công chúa (秦國大長公主).

Dương Quốc công chúa [揚國公主; 1097 - 1099], con gái thứ 4 của Tống Triết Tông, chết non.
Sinh năm Thiệu Thánh thứ 4, sơ phong Ý Ninh công chúa (懿寧公主). Năm Nguyên Phù thứ 2, ngày 29 tháng 9 (âm lịch), công chúa qua đời, truy thuỵ Dương Quốc công chúa. Tống Huy Tông tức vị, cải thành Thuần Mĩ Đế cơ (純美帝姬).

Triệu Mậu [趙茂; 26 tháng 8, 1099 - 6 tháng 10, 1099], con trai duy nhất của Tống Triết Tông.
Sinh ngày 8 tháng 8 năm Nguyên Phù năm thứ 2. Qua đời được truy thụy là Việt Xung Hiến vương (越冲献王). Tống Huy Tông tức vị, cải phong làm Hoàng thái tử, thụy là Hiến Mẫn Thái tử (献愍太子).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hoài Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:懷皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đông Hán Hiếu Linh Đế Linh Hoài hoàng
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Chiêu Liệt Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭烈皇后) là thụy hiệu của một số nhân vật chưa từng làm hoàng hậu nhưng được hậu thế truy tôn trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc.
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Ngụy Phế Đế Chân Hoàng hậu** (chữ Hán: 魏廢帝甄皇后; ? - 22 tháng 8, 251), là Hoàng hậu của Tào Ngụy Phế Đế Tào Phương thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝章皇后, 952 - 995), còn gọi **Khai Bảo Hoàng hậu** (開寶皇后), là Hoàng hậu thứ 2 tại vị và là Chính thất thứ 3 của Tống Thái Tổ Triệu
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Mỹ nhân** (chữ Hán: 美人; Bính âm: měirén), là một tước hiệu của phi tần trong hậu cung các quốc gia Đông Á. Đây cũng là một dạng danh từ dùng để gọi những người
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
**Trần Hiện** (Chữ Nho: 陳現; ? – 1313 hoặc 1314), là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Không rõ thân thế của Trần
**Chiêu Hiến Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭憲皇太后; 902 - 17 tháng 7, 961), là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống với vai trò là sinh mẫu của Tống Thái Tổ Triệu Khuông
**Chiêu Hiến Vương hậu** (chữ Hán: 昭憲王后; Hangul: 소헌왕후, 12 tháng 10, 1395 - 19 tháng 4, 1446), là Vương hậu của Triều Tiên Thế Tông, và là mẹ ruột của Triều Tiên Văn Tông
**Cung Thục Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭淑皇貴妃, 1611 - 1642) hay **Điền Quý phi** (田貴妃), là phi tần rất được sủng ái của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慈高皇后, ; 1575 - 31 tháng 10 năm 1603), là một Đại phúc tấn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đồng thời là sinh mẫu của
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Đại Chu hậu** (chữ Hán: 大周后; 936 - 965), cũng gọi **Chiêu Huệ Chu hậu** (昭惠周后), họ Chu (周氏), tên không rõ, có thuyết tên **Hiến** (宪), biểu tự **Nga Hoàng** (娥皇), là vợ đầu
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Triệu Đức Chiêu** (趙德昭; 951 - 979), tự **Nhật Tân** (日新), là Hoàng trưởng tử của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Ông vốn là con trai thứ của Tống Thái Tổ, nhưng do _Triệu
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Chân hoàng hậu** (; 26 tháng 1 năm 183 - 4 tháng 8, 221), còn được gọi là **Chân Phục** (甄宓) hoặc **Chân Lạc** (甄洛), đương thời xưng là **Chân phu nhân** (甄夫人), là nguyên