✨Cung Thục Hoàng quý phi

Cung Thục Hoàng quý phi

Cung Thục Hoàng quý phi (chữ Hán: 恭淑皇貴妃, 1611 - 1642) hay Điền Quý phi (田貴妃), là phi tần rất được sủng ái của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc.

Mâu thuẫn của bà và Hiếu Tiết Liệt Hoàng hậu được biết đến qua sự kiện Trần Viên Viên được đưa vào cung hầu hạ Sùng Trinh Đế. Cha bà là Điền Hoằng Ngộ (田弘遇), một thương nhân ở Thiểm Tây (陕西). Mẹ bà họ Ngô (吳), người Dương Châu (揚州). Sau khi lấy Ngô thị, Điền Hoằng Ngộ chuyển về Dương Châu sinh sống, từ đó sinh Điền thị.

Sau khi Ngô thị mất, Điền Hoằng Ngộ thuê một vị nữ cầm sư họ Tiết (薛) dạy con gái kỹ năng cổ cầm. Tiết thị sớm trở thành kế thất của Điền Hoằng Ngộ, mẹ kế của Điền thị. Người mẹ kế này rất thương yêu Điền thị, dạy cả hội hoạ cho bà. Do vậy, Điền thị từ nhỏ đã cầm kỳ thi hoạ, đa nghệ đa tài.

Đại Minh Tần Phi

Nhập cung

Sử sách không ghi rõ năm Điền thị nhập cung. Chỉ biết vào năm Thiên Khải thứ 7 (1627), Minh Hy Tông Thiên Khải Đế băng hà, Tín vương Chu Do Kiểm kế vị, tức Minh Tư Tông. Tín Vương phi Chu thị sách lập Hoàng hậu, Điền thị cùng Viên thị phong vị Tần (嬪). Như vậy có thể đoán cả ba vị Chu thị, Điền thị và Viên thị đều được gả vào Tín vương phủ. Chu thị là chính thất nên được phong Vương phi (王妃), còn Điền thị và Viên thị là thiếp nên được phong Trắc phi (側妃).

Về sau, Điền thị và Viên thị lần lượt được tấn phong Phi (妃), Quý phi (貴妃) (không rõ năm sách phong của từng tước vị).

Đắc sủng

Điền Quý phi tài nghệ hơn người nên được Sùng Trinh Đế hết mực sủng ái. Mặc dù Chu hoàng hậu và Sùng Trinh Đế tình cảm tốt đẹp, sự sủng ái của ông đối với Điền Quý phi được xem là vượt trội hơn cả. Bằng chứng là trước khi Điền Quý phi sinh con đầu lòng, Chu hoàng hậu hạ sinh 3 Hoàng tử và một Hoàng nữ cho Sùng Trinh Đế. Tuy nhiên từ khi Điền Quý phi bắt đầu sinh dục, Chu hậu không được ghi nhận là hoài thai thêm lần nào nữa. Có thể đoán được Sùng Trinh Đế khi này chuyên sủng Điền Quý phi và có phần xa cách Hoàng hậu.

Năm Sùng Trinh thứ 5 (1632), Điền Quý phi sinh Hoàng tứ tử Chu Tử Chiếu (朱慈炯). Đây là người con sống lâu nhất của Điền thị, theo sử sách Chu Tử Chiếu sống đến triều Đại Thuận thì mất, được nhà Nam Minh truy phong Vĩnh Điệu vương (沅怀王).

Năm 1633, bà tiếp tục sinh Hoàng ngũ tử Chu Tử Hoán (朱慈煥), Hoàng tử lên 5 tuổi thì bị bạo bệnh qua đời. Có thuyết cho rằng Hoàng tử còn sống, về sau bỏ trốn đến Giang Nam.

Năm Sùng Trinh thứ 10 (1637), Điền thị lại sinh Hoàng lục tử Chu Tử Sán (朱慈燦), nhưng chết non năm 2 tuổi. Ngoài ra, bà còn sinh một Hoàng nam mất năm 3 tuổi (không rõ năm sinh năm mất), truy phong Điệu Lương vương (悼良王).

Bất hoà với Hoàng hậu

Điền Quý phi đắc sủng hậu cung nên có phần không chịu lùn cúi Chu hoàng hậu. Trái ngược với Điền Quý phi, Viên Quý phi cư xử với Hoàng hậu cung kính nhún nhường, đối đãi nội ngoại vô cùng cẩn thận khép nép. Chu hậu không dung hoà với Điền thị nên cư xử với bà hết sức khiếm nhã, đôi lúc còn dùng phép tắc trong cung làm mất mặt Điền thị.

Sử sách không ghi rõ thời gian Trần Viên Viên vào cung, rất có thể vì duyên cớ bà bị Điền Hoằng Ngộ chiếm đoạt, cho nên Sùng Trinh Đế kết tội Điền Hoằng Ngộ, liên lụy Điền Quý phi bị thất sủng.

Qua đời

Tháng 7 năm Sùng Trinh thứ 15 (1642), Điền Quý phi mắc bạo bệnh qua đời, hưởng dương 32 tuổi. Nhiều sử gia cho rằng cái chết của 3 Hoàng tử chết non làm bà bi ai quá độ. Sùng Trinh Đế vô cùng thương tiếc, truy thụy Cung Thục Đoan Huệ Tĩnh Hoài Hoàng quý phi (恭淑端惠静怀皇贵妃). Bà được xem là vị phi tần cuối cùng của nhà Minh được phong thuỵ hiệu Hoàng quý phi.

Tháng 1 năm Sùng Trinh thứ 17 (1644), Sùng Trinh Đế táng Hoàng quý phi tại phía nam núi Lộc Mã, huyện Xương Bình. Khu mộ của bà do Tả thị lang bộ Công là Trần Tất Khiêm phụ trách xây dựng, nhưng chưa tiến hành xong thì triều Minh đã sụp đổ.

Ngày 25 tháng 3 năm đó, sau khi Đế-Hậu tự vẫn, quan phủ Thuận Thiên của chính quyền Đại Thuận là Lý Phiếu, theo lệnh Lý Tự Thành khai quật mộ Đoan Huệ Tĩnh Hoài Hoàng quý phi để hợp táng cùng Sùng Trinh Đế và Chu hoàng hậu. Ngày 4 tháng 4 chôn cất.

Tháng 9 năm Thuận Trị thứ 2 (1645), mộ phần của Đoan Huệ Tĩnh Hoài Hoàng quý phi được nhà Thanh xây dựng kiến trúc, nâng cấp lên quy mô to lớn, đặt tên là Tư lăng (思陵).

Hậu duệ

Bà là người sinh nhiều con trai nhất cho Sùng Trinh đế, tổng cộng có bốn hoàng tử.

Chu Tử Chiếu (朱慈炯) (1632 - ?), mất dưới triều Đại Thuận. Nhà Nam Minh truy phong Vĩnh Điệu vương (沅怀王).

Chu Tử Hoán (朱慈煥) (1633 - 1637), bạo bệnh rồi mất lúc 5 tuổi. Có thuyết cho là còn sống và bỏ trốn về Giang Nam.

Chu Tử Sán (朱慈燦) (1637 - 1639), chết non.

Một hoàng nam không rõ tên, mất khi mới 3 tuổi, không rõ sinh mất, truy phong Điệu Lương vương (悼良王).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cung Thục Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭淑皇貴妃, 1611 - 1642) hay **Điền Quý phi** (田貴妃), là phi tần rất được sủng ái của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Thuần Ý Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純懿皇貴妃; 3 tháng 11, năm 1689 - 17 tháng 12, năm 1784) là một phi tần của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế. ## Tiểu sử Thuần
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Trang Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊靜皇貴妃; 27 tháng 2 năm 1838 - 15 tháng 11 năm 1890), thường được gọi là **Lệ phi** (麗妃), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm
**Hiếu Tĩnh Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝靖皇太后; 27 tháng 2, 1565 - 18 tháng 10 năm 1611) còn được gọi là **Vương Cung phi** (王恭妃), là Hoàng quý phi của Minh Thần Tông Vạn
**Thuần Hiến Hoàng quý phi Nghiêm thị** (chữ Hán: 純獻皇貴妃嚴氏; Hangul: 순헌황귀비엄씨; 2 tháng 2 năm 1854 – 20 tháng 7 năm 1911) là một phi tần của Đại Hàn Cao Tông, là vị Hoàng
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
thumb|Tranh vẽ [[Dương Quý phi - vị Quý phi nổi tiếng nhất trong lịch sử]] **Quý phi** (chữ Hán: 貴妃; Bính âm: guìfēi), là một danh hiệu dành cho phi tần trong hậu cung của
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Thừa Càn cung** (; ) là một trong sáu cung điện thuộc thuộc Đông lục cung, nằm trong khuôn viên của hậu cung tại Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. "Thừa Càn" có ý nghĩa là
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Tần** (chữ Hán: 嬪; Hangul: 빈; Kana: ひん), còn gọi **Cung tần** (宮嬪), là một cấp bậc phi tần trong hậu cung của Quốc vương hoặc Hoàng đế. Danh xưng này tồn tại ở các
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Định phi Vạn Lưu Ha thị** (chữ Hán: 定妃万琉哈氏; 1661 - 24 tháng 5, năm 1757), cũng gọi Ngõa Lưu Cáp thị (瓦琉哈氏), là một phi tần của Thánh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ##
phải|Hoàng cung ở [[thủ đô Bangkok.]] nhỏ|Nhà nguyện Phật ngọc lục bảo. phải|Wat Phra Kaew nhìn từ Hoàng cung. **Cung điện Hoàng gia Thái Lan** ở Băng Cốc (tiếng Thái: พระบรมมหาราชวัง _Phra Borom Maha Ratcha
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
nhỏ|295x295px|Trữ Tú Cung **Trữ Tú cung** (, , ) là một trong sáu cung nằm ở Tây lục cung, thuộc Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Từ thời Gia Khánh Đế, cung điện này nổi tiếng
**Viên Quý phi** (chữ Hán: 袁贵妃, 1616 - 1654), là phi tần của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Khi
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Hoa phi Hầu Giai thị** (chữ Hán: 华妃侯佳氏, ? - 1804), cũng gọi **Hầu thị** (侯氏), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một
**Khâm Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽成皇后; 1052 - 1102), còn gọi là **Chu Đức phi** (朱德妃) hoặc **Chu Thái phi** (朱太妃), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc và là sinh