✨Du Quý phi

Du Quý phi

Du Quý phi Hải thị (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến là sinh mẫu của Vinh Thuần Thân vương Vĩnh Kỳ.

Cuộc đời

Đại Thanh tần phi

Du Quý phi Hải thị sinh ngày 4 tháng 5 (âm lịch) vào năm Khang Hi thứ 53 (1714), phụ thân là Viên ngoại lang Ngạch Nhĩ Cát Đồ (额尔吉图). Thông tin gia tộc của bà còn mơ hồ, chỉ biết kỳ tịch của bà là Mông Cổ Tương Lam kỳ, người Nam Uyển Hải Tử, gia tộc gọi là "Kha Lý Diệp Đặc thị" (珂里叶特氏), qua thư tịch Hán là "Hải Giai thị" (海佳氏) hay "Hải thị". Bà vào hầu Càn Long Đế khi ông còn là Bảo Thân vương, vị phân là Cách cách, tức hàng thiếp hầu có địa vị thấp trong phủ để.

Năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 9 (âm lịch), Bảo Thân vương Hoằng Lịch đăng cơ, tức [Càn Long Đế].

Sang ngày 24 tháng 9 (âm lịch) cùng năm, Hoàng đế đại phong phi tần, Cách cách Hải thị được phong làm Thường tại, phiên âm họ của bà trong văn bản thời Càn Long đều là họ Hải, do đó bà được gọi là [Hải Thường tại; 海常在], là bậc gần cuối của hàng ngự thiếp, chỉ trên Đáp ứng. Bấy giờ, tước vị của bà cùng Trần Thường tại là thấp nhất trong số các phi tần đã theo hầu Càn Long Đế từ Tiềm để. Năm Càn Long nguyên niên (1736), lại thăng Quý nhân.

Năm Càn Long thứ 6 (1741), ngày 7 tháng 2 (âm lịch), Hải thị sinh hạ Ngũ a ca Vĩnh Kỳ tại Vĩnh Hòa cung. Ngày 13 tháng 2 (âm lịch) cùng năm, chiếu tấn Du tần (愉嫔). Theo Hồng xưng thông dụng, "Du" có Mãn văn là 「Hebengge」, nghĩa là "hòa thuận", "thuận theo", "thỏa hiệp". Tháng 11 năm ấy, lấy Lễ bộ Thượng thư Nhậm Lan Chi (任兰枝) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Xuân Sơn (春山) làm Phó sứ, hành tấn phong lễ. Năm thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1, Càn Long Đế Càn Long Đế chỉ dụ thăng Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi, đồng thời gia ân hậu cung. Nhàn phi Na Lạp thị cùng Thuần phi Tô thị tấn phong Quý phi, Quý nhân Ngụy thị lên Tần, Du tần Hải thị được sắc phong làm Phi, tức Du phi (愉妃). Lúc này cùng có vị Phi là Gia phi Kim thị - người hạ sinh Hoàng tứ tử Vĩnh Thành. Ngày 17 tháng 11 (âm lịch) cùng năm ấy, mệnh Lễ bộ Thượng thư Lai Bảo (来保) làm Chính sứ, Công bộ Tả thị lang Tác Trụ (索柱) làm Phó sứ, hành sắc phong lễ.

Địa vị đứng đầu

Khi ấy, con trai duy nhất của bà là Ngũ a ca Vĩnh Kỳ rất thông minh, đa tài đa nghệ, được Càn Long Đế xem trọng và đánh giá là đứa con tài giỏi nhất mà mình có được. Năm Càn Long thứ 30 (1765), tháng 11, Ngũ a ca Vĩnh Kỳ được Càn Long Đế tấn phong làm Hòa Thạc Vinh Thân vương, nhưng chỉ ba tháng sau đó thì Vĩnh Kỳ cũng qua đời.

Sau khi Vĩnh Kỳ mất, con trai duy nhất là Hoàng tôn Miên Ức cũng do Hải thị chăm sóc và chiếu cố. Ngoài ra trong năm Càn Long, con gái cả Huyện quân của Vĩnh Kỳ qua đời, con gái duy nhất Tiểu cách cách được an bài bên phòng cạnh Đoan Tắc môn (耑則門), lại còn ra chỉ dụ đích thân Hải thị cùng con dâu - Đích phúc tấn Tây Lâm Giác La thị của Vĩnh Kỳ - rất chiếu cố Tiểu cách cách.

Sau khi Lệnh Ý Hoàng quý phi Ngụy thị cùng Khánh Quý phi Lục thị qua đời, mặc dù chưa từng được lên "Quý phi", nhưng Hải thị vẫn thường là người đứng đầu các phi tần tham gia nhiều nghi thức trọng đại với vị trí cao nhất, như dâng cơm cho Sùng Khánh Hoàng thái hậu hoặc được đảm nhiệm Thân tàm lễ. Tuy nhiên việc "đứng đầu" này không đồng nghĩa Hải thị là "Chủ nội trị" như Hoàng hậu, do việc điều phối chính thức của hậu cung đều do Nội vụ phủ đảm trách, việc các hậu phi thực hiện phần nhiều đều là nghi thức (ví dụ dâng cơm lên Thái hậu), nên việc khuyết thiếu vị trí Hoàng hậu không đồng nghĩa với việc phi tần sẽ thay thế Hoàng hậu, và điều này cũng là thực trạng khi Lệnh Ý Hoàng quý phi còn sống. Rất nhiều nghi thức triều Thanh vốn đề cập việc Hoàng đế và Hoàng hậu đích thân chủ trì, nhưng cũng rất nhiều lần những lễ đó được phái thân vương (quan viên) và phi tần (mệnh phụ) thay thế, ví dụ "Thân tàm lễ" bên trên.

Tặng làm Quý phi

Năm Càn Long thứ 57 (1792), ngày 21 tháng 5 (âm lịch), Du phi Hải thị qua đời, thọ 78 tuổi.

Sau khi Du phi Hải thị qua đời, kim quan tạm quàn tại Cát An sở (吉安所). Sang ngày 23 tháng 5 (âm lịch) cùng năm ấy, Càn Long Đế ra chỉ dụ tang lễ của Du phi lấy theo tang nghi của Khánh Cung Hoàng quý phi, khi qua đời là vị Quý phi, do đó có thể thấy Du phi là lấy lễ Quý phi mà an táng. Ngày 27 tháng 5 (âm lịch), giờ Dần, kim quan của Du Quý phi được đưa từ Cát An sở đến Tĩnh An trang tạm an. Ngày 2 tháng 6 (âm lịch), lần lượt cử hành Tế văn sơ thứ và đại tế. Trong tế văn của hai lần này, Hải thị vẫn được giữ là Du phi, tuy nhiên vào Tế văn sau 100 ngày thì bà được Càn Long Đế nâng thành Quý phi trong lời văn tế, do vậy về sau bà được gọi là Du Quý phi (愉貴妃). Tất cả đều do Hoàng thập thất tử Vĩnh Lân cùng Lễ bộ Thị lang Thiết Bảo (铁保) chủ trì.

Năm Càn Long thứ 58 (1793), ngày 13 tháng 10 (âm lịch), phụng di kim quan của Du Quý phi từ Tĩnh An trang đến Dụ lăng, Thanh Đông lăng. Ngày 20 tháng 10 (âm lịch), làm lễ nhập táng Du Quý phi vào Phi viên tẩm.

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Thuần Ý Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純懿皇貴妃; 3 tháng 11, năm 1689 - 17 tháng 12, năm 1784) là một phi tần của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế. ## Tiểu sử Thuần
Một **Quỹ** phi lợi nhuận (còn gọi là **Quỹ từ thiện**) là một loại pháp nhân của tổ chức phi lợi nhuận sẽ thường tặng tiền và hỗ trợ cho các tổ chức khác hoặc
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Khánh Cung Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慶恭皇貴妃; 12 tháng 8 năm 1724 - 21 tháng 8 năm 1774), Lục thị (陆氏), người Hán, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Mân Quý phi Từ Giai thị** (chữ Hán: 玫貴妃徐佳氏; 1838 - 1890), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Xuất thân Mân Quý phi Từ Giai thị sinh ngày
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị** (chữ Hán: 穎貴妃巴林氏, 7 tháng 3 năm 1731 - 14 tháng 3 năm 1800), xuất thân Mông Cổ Tương Hồng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Đôn Di Hoàng quý phi** (chữ Hán: 惇怡皇貴妃; 16 tháng 10, năm 1683 - 14 tháng 3, năm 1768), Qua Nhĩ Giai thị (瓜尔佳氏) , Mãn Châu Tương Bạch Kỳ là một phi tần của
**Hòa Dụ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 和裕皇贵妃; 9 tháng 1, năm 1761 - 27 tháng 4, năm 1834), Lưu Giai thị, xuất thân Bao y, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Thuần Dụ Cần phi** (chữ Hán: 純裕勤妃; ? - 1754), họ Trần, người Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thuần Dụ Cần
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Đoan Hòa Hoàng quý phi Vương thị** (chữ Hán: 端和皇貴妃王氏, ? - 1553), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà nổi tiếng là cùng Trang Thuận hoàng quý phi
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Uyển Quý phi Trần thị** (chữ Hán: 婉貴妃陳氏; 1 tháng 2 năm 1717 - 10 tháng 3 năm 1807) là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Cuộc đời ###
**Viên Quý phi** (chữ Hán: 袁贵妃, 1616 - 1654), là phi tần của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Khi
**Ôn Hi Quý phi** (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và
**Trang Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊靜皇貴妃; 27 tháng 2 năm 1838 - 15 tháng 11 năm 1890), thường được gọi là **Lệ phi** (麗妃), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm
**Nhất giai Quý phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 一階貴妃 阮氏; ? – 1885), không rõ tên húy, nguyên là chính thất của vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà mất sau
thumb|300 px| Xem chi tiết ở bài [[động học Michaelis–Menten]] Trong thống kê, **hồi quy phi tuyến tính** là một dạng phân tích hồi quy trong đó dữ liệu quan sát được mô hình hóa
**Cung Thục Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭淑皇貴妃, 1611 - 1642) hay **Điền Quý phi** (田貴妃), là phi tần rất được sủng ái của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng
**Tuần Quý phi Y Nhĩ Căn Giác La thị** (chữ Hán: 循贵妃伊爾根覺羅氏; 29 tháng 10 năm 1758 - 10 tháng 1 năm 1798), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ##
**Thành Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị** (chữ Hán: 成貴妃鈕祜祿氏; 8 tháng 2 năm 1813 - 30 tháng 3 năm 1888), là 1 phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. ## Tiểu sử
**Đồng Quý phi Thư Mục Lộc thị** (chữ Hán: 彤貴妃舒穆魯氏; 1817 - 1877), là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. ## Tiểu sử ### Nhập cung làm Phi Thư Mục Lộc
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
**Kính Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敬敏皇貴妃; ? - 25 tháng 7 năm 1699), Chương Giai thị, nguyên gọi **Mẫn phi** (敏妃), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế.
**Kiều Quý phi** (chữ Hán: 喬貴妃; ? - ?) là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Bà nổi tiếng là tỷ muội tình thâm, vào sinh ra tử
**Vinh An Hoàng quý phi Diêm thị** (chữ Hán: 榮安皇貴妃阎氏, ? - 1541), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà là Hoàng quý phi đầu tiên của Minh Thế