Ôn Hi Quý phi (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và là em gái Hoàng hậu thứ hai của ông, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu.
Tiểu sử
Dòng dõi cao quý
Ôn Hi Quý phi xuất thân từ dòng họ danh giá Nữu Hỗ Lộc thị từ Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là con gái thứ của Thái sư Quả Nghị công Át Tất Long và là em gái của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu - Đệ nhị Chính cung của Khang Hi Đế sau khi Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu băng thệ.
Xuất thân của Ôn Hi Quý phi vào lúc đó rất hiển hách. Dòng họ Nữu Hỗ Lộc thị là một thế gia vốn cư ngụ tại Trường Bạch Sơn, đời đời thế tập "Lộ trưởng" tại Anh Ngạch địa phương, có thể xem là đại danh môn. Tổ phụ của Ôn Hi Quý phi là Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô - một trong những khai quốc công thần của nhà Thanh, trong những năm chinh chiến dưới trướng Nỗ Nhĩ Cáp Xích, ông thường được giao chỉ huy đội quân [Tương Hoàng kỳ] của Nữ Chân, thường giành được nhiều thắng lợi, được đặc biệt phối thờ Thái miếu.
Do công lao to lớn, gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị nhánh Hoằng Nghị công được xem là [Danh môn trung danh môn], đứng đầu thế gia Bát kỳ Mãn Châu. Các con của ông cũng hiển hách, đều nắm tước vị quan trọng. Nữ quyến trong nhà cũng có hôn nhân tốt, con gái lớn của ông trở thành Nguyên phi của Thanh Thái Tông. Còn người con gái út của ông lấy Trịnh Hiến Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng.
Gia thế hiển hách
Ngạch Diệc Đô có 16 người con trai, phụ thân Ôn Hi Quý phi là Át Tất Long, là con trai thứ 16 của Ngạch Diệc Đô với Hòa Thạc Công chúa Mục Khố Thạp (穆库什) - con gái thứ tư của Thanh Thái Tổ.
Từ thời Thanh Thái Tông, Át Tất Long đã nhiều lần lập quân công, đến thời Thuận Trị do có công lao chém cháu của Lý Tự Thành là Lý Cẩm, thăng "Nhị đẳng Giáp Lạt Chương Kinh" (二等甲喇章京), sau do tập tước của Đồ Nhĩ Cách (图尔格) mà thăng "Nhất đẳng Công", kiêm "Thảo luận chính sự đại thần", lãnh "Thị vệ Nội đại thần", thêm "Thái tử Thái bảo" (太子太傅) vinh danh. Khi Thuận Trị Đế giá băng, Át Tất Long cùng Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp và Ngao Bái nhận mệnh phụ chính Khang Hi Đế, trở thành một trong Tứ trụ đại thần quyền khuynh thiên hạ. Đến khi Khang Hi Đế thân chính, tuyên dương công thần, Át Tất Long được gia thăng [Nhất đẳng Quả Nghị công; 一等果毅公], thêm chức Thái sư.
Át Tất Long có 3 vợ cả, người đầu là con gái Dĩ cách Anh Thân vương A Tế Cách; kế thê là con gái Dĩnh Nghị Thân vương Tát Cáp Lân, và người sau đó là kế thê Ba Nhã Lạp thị (巴雅拉氏), sinh ra A Linh A (阿灵阿) là em trai út của bà. Mẹ ruột của bà là người thuộc bộ tộc Thư Thư Giác La thị (舒舒觉罗氏), là trắc thất của Át Tất Long, cùng bà thì Thư Thư Giác La thị còn sinh ra Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu và Pháp Khách (法喀). Do hai con trai đích tử trước mất sớm, Pháp Khách trở thành trưởng tử của cha bà, cưới con gái Tông thất A Nhan Đồ (阿颜图), sau cưới Hách Xá Lý thị là em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu.
Đại Thanh Quý phi
Sách phong Quý phi
Gia thế cực kỳ hiển hách, không rõ Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung khi nào. Hậu cung nhà Thanh thời Khang Hi còn rất sơ khai, rất nhiều phi tần nhập cung từ sớm, nhưng chỉ được gọi là Thứ phi, rất có thể Nữu Hỗ Lộc thị cũng trong trường hợp như vậy, như Bình phi Hách Xá Lý thị - em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, vào cung tuy không có danh vị nhưng lại có đãi ngộ hàng Phi. Rất có thể Nữu Hỗ Lộc thị, vì là em gái của Hoàng hậu mà cũng có đãi ngộ tương đương.
Năm Khang Hi thứ 20 (1682), ngày 25 tháng 10 (âm lịch), đại phong hậu cung, Quý phi Đông thị được phong làm Hoàng quý phi, Thứ phi Nữu Hỗ Lộc thị được phong làm Quý phi. Thời điểm sách phong, chị gái bà là Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu đã qua đời được 3 năm.
Ngày 20 tháng 12, lấy Đại học sĩ Minh Châu (明珠) cầm cờ tiết, thụ sách phong.
Sách văn viết:
Năm Khang Hi thứ 22 (1683), Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị hạ sinh Hoàng thập tử Dận Ngã. Năm thứ 24 (1685), hạ sinh Hoàng thập nhất nữ, do sinh thiếu tháng mà chết sớm khi chưa đầy 1 tuổi. Từ đó bà không hạ sinh thêm người nào nữa.
Địa vị của bà chỉ dưới Hoàng quý phi Đông thị (sau là Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu), sự vượt trội địa vị của bà có lẽ do bà là dòng dõi cao quý, lại là em gái Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, vị "Lương phối" rất được Khang Hi Đế coi trọng. Sau khi Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu tạ thế (1689), Khang Hi Đế không muốn lập ai làm Hoàng hậu nữa, nên lúc này trong cung, ngoài Nhân Hiến Hoàng thái hậu thì Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị là người có phân vị cao nhất.
Qua đời và truy tặng
Năm Khang Hi thứ 33 (1694), ngày 3 tháng 11, Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị tạ thế, không rõ bao nhiêu tuổi.
Ngày ấy, người dưới tấu Quý phi mất, Khang Hi Đế ứng nghỉ triều 3 ngày, từ Đại nội trở xuống và Tông thất trở lên, trong 3 ngày mặc quần áo trắng, không tế thần. Phụng chỉ, nghỉ triều 5 ngày, Hoàng thập tử Dận Ngã khi ấy 11 tuổi cắt bím tóc, đến ngày giỗ lớn cởi tang phục, trăm ngày cạo đầu. Hoàng đế truy tặng Quý phi thụy hiệu là [Ôn Hi], và Nữu Hỗ Lộc thị trở thành Quý phi duy nhất của triều đại nhà Thanh có thụy hiệu riêng.
Sách thụy văn viết:
Năm Khang Hi thứ 34 (1695), ngày 8 tháng 9 (âm lịch), đưa kim quan của Quý phi nhập Phi viên tẩm của Cảnh lăng (景陵), Thanh Đông lăng.
Hậu cung bài tự
Căn cứ 《Khâm định đại thanh hội điển tắc lệ》cuốn 42, hậu phi bài vị trình tự ghi lại:
- Ôn Hi Quý phi
- Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Ý Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ôn Hi Quý phi** (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
**Đôn Di Hoàng quý phi** (chữ Hán: 惇怡皇貴妃; 16 tháng 10, năm 1683 - 14 tháng 3, năm 1768), Qua Nhĩ Giai thị (瓜尔佳氏) , Mãn Châu Tương Bạch Kỳ là một phi tần của
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Kính Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敬敏皇貴妃; ? - 25 tháng 7 năm 1699), Chương Giai thị, nguyên gọi **Mẫn phi** (敏妃), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế.
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Bình phi Hách Xá Lý thị** (chữ Hán: 平妃赫舍里氏; ? - 1696), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu. ##
**Định phi Vạn Lưu Ha thị** (chữ Hán: 定妃万琉哈氏; 1661 - 24 tháng 5, năm 1757), cũng gọi Ngõa Lưu Cáp thị (瓦琉哈氏), là một phi tần của Thánh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ##
**Nghi phi Quách Lạc La thị** (chữ Hán: 宜妃郭络罗氏, ? - 1733), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. Bà là
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Lương phi Vệ thị** (chữ Hán: 良妃衛氏; 1661 - 29 tháng 12 năm 1711), nguyên Giác Nhĩ Sát thị (覺爾察氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
**Thuận Ý Mật phi** (chữ Hán: 顺懿密妃; Thập niên 1660 - 16 tháng 10 năm 1744), Vương thị (王氏), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Thuận
**Thuần Dụ Cần phi** (chữ Hán: 純裕勤妃; ? - 1754), họ Trần, người Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thuần Dụ Cần
**Huệ phi Na Lạp thị** (chữ Hán: 惠妃那拉氏; ? - 7 tháng 4 năm 1732), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, cũng gọi **Nạp Lạt thị** (纳喇氏), là một trong những phi tần đầu tiên của
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Thành phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 成妃戴佳氏; ? - 1740), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thành phi Đới Giai thị, cũng gọi [**Đạt Giáp thị**;
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 慧妃博爾濟吉特氏; ? - 1670), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ xuất thân, một người cháu của Hiếu Trang Văn hoàng hậu và là một trong những
**Đoan Hòa Hoàng quý phi Vương thị** (chữ Hán: 端和皇貴妃王氏, ? - 1553), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà nổi tiếng là cùng Trang Thuận hoàng quý phi
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
**Mân Quý phi Từ Giai thị** (chữ Hán: 玫貴妃徐佳氏; 1838 - 1890), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Xuất thân Mân Quý phi Từ Giai thị sinh ngày
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng
**Trinh phi Đổng Ngạc thị** (chữ Hán: 貞妃董鄂氏; ? - 5 tháng 2, 1661) là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. Bà là em họ của Đổng Ngạc hoàng quý phi,
[[Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực thuộc Nữu Hỗ Lộc thị. Ông xuất thân là một nhánh của Nữu Hoằng Nghị công gia.]] **Nữu Hỗ Lộc thị** (chữ Hán: 鈕祜祿氏; ), cũng gọi
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Đôn phi Uông thị** (chữ Hán: 惇妃汪氏, 27 tháng 3 năm 1746 - 6 tháng 3 năm 1806), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần rất được sủng ái vào thời kì vãn
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hòa Thạc Ôn Khác Công chúa** (chữ Hán: 和硕温恪公主, 1687 - 1709), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 13 của Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Bát Công chúa. ## Cuộc sống
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Át Tất Long** (chữ Hán: 遏必隆; ; ? – 1673), còn gọi là **Ngạc Tất Long** (鄂必隆), Nữu Hỗ Lộc thị, Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, là người con thứ 16 của Ngạch Diệc Đô,
nhỏ|Diên Hi cung tại Tử Cấm Thành **Diên Hi cung** (chữ Hán: 延禧宫) là một trong sáu cung điện thuộc thuộc Đông lục cung, nằm trong khuôn viên của hậu cung tại Tử Cấm Thành,
Từ thời xa xưa, nhân sâm đã được sử dụng như một phương thuốc làm đẹp dành cho các cung nữ quyền quý. Dương Quý Phi hay Từ Hi Thái Hậu… cũng là những mỹ
**Doãn Ngã** (, chữ Hán: 允䄉, bính âm: Yvn o; 28 tháng 11 năm 1683 - 18 tháng 10 năm 1741) là hoàng tử thứ 10 tính trong số những người con sống tới tuổi
**Mục Khố Thập** (; 1595 – 1659) là một công chúa của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, con gái thứ tư của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. ## Cuộc đời Mục
**Thứ phi Hoàn Nhan thị** (chữ Hán: 恕妃完颜氏, ? - khoảng năm 1790), là Trắc Phúc tấn đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế khi ông còn là Hoàng tử. ## Thân
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
CẶP GỘI XẢ TIGI ĐỎ SIÊU THƠM MỀM MƯỢTChỉ #130k/cặp✨Loại này thì không cần phải giới thiệu nhiều r. Trăm người dùng thì vạn người mê. Chất lượng không cần bàn cãi✨ Gội Tigi tóc