✨Độc Cô quý phi (Đường Đại Tông)

Độc Cô quý phi (Đường Đại Tông)

Độc Cô Quý phi (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là Trinh Ý Hoàng hậu (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý Dự, sau khi mất được truy phong Hoàng hậu.

Trong lịch sử nhà Đường, bà và Võ Huệ phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ là 2 phi tần duy nhất dù chưa từng làm chính thất hay Hoàng hậu, cũng không sinh ra hoàng đế kế vị nhưng vẫn được phong thụy hiệu Hoàng hậu. Về sau Võ Huệ phi bị Đường Túc Tông Lý Hanh tước đi thụy hiệu vì tội danh mưu sát Thái tử Lý Anh, Độc Cô thị trở thành người duy nhất hưởng đặc ân trên.

Tiểu sử

Độc Cô Quý phi là người Kinh Triệu (京兆; nay là Thiểm Tây, Tây An), xuất thân gia tộc trứ danh Độc Cô thị (独孤氏), một đại tộc người Tiên Ti.

Họ Độc Cô vốn là họ Lý, tức Lũng Tây Lý thị - cùng xuất xứ với họ Lý của hoàng tộc nhà Đường. Sang đời Độc Cô Tín, hoàng đế nhà Tùy ban chữ [Độc Cô] nên cả họ chuyển sang họ Độc Cô. Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La của Tùy Văn Đế Dương Kiên, Minh Kính hoàng hậu của Bắc Chu và Nguyên Trinh hoàng hậu mẹ của Đường Cao Tổ là ba chị em xuất thân từ đại tộc này.

Cha của Độc Cô Quý phi là Độc Cô Dĩnh (獨孤穎), khi ấy đang giữ chức Tả uy vệ lục sự tham quân, sai tặng làm Thượng thư bộ Công. Gia đình Quý phi có anh trai là Độc Cô Trinh (獨孤禎) và Độc Cô Lương Tái (獨孤良佐), về sau đều làm những chức quan cao trong hệ thống nhà Đường.

Theo Đường Hội yến (唐会要), Độc Cô thị trở thành phi thiếp của Đường Đại Tông Lý Dự khi ông còn là Quảng Bình quận vương (廣平郡王). Bà được miêu tả là rất xinh đẹp, độc chiếm mọi sủng ái của Đại Tông trong số các vương phi, Cựu Đường thư trịnh trọng ghi [Bế hạnh chuyên phòng; 嬖幸专房] để miêu tả sự sủng ái tuyệt đối của Đại Tông đối với Độc Cô thị. Thời gian này, bà hạ sinh cho Đại Tông người con trai Lý Huýnh (李迥) và người con gái là Hoa Dương công chúa.

Đương thời, chính thê của Đại Tông là Vương phi Thôi thị, cậy gia thế hiển hách nên vô cùng hung hãn, chèn ép cả Độc Cô phi. Tuy nhiên khi Loạn An Sử xảy ra, mẫu gia bị thất thế, Thôi phi ưu buồn tự thu mình và qua đời sau khi về lại kinh sư. Chính vương phi qua đời, Thẩm phu nhân - người sinh cho Đại Tông trưởng tử Lý Quát lại thất lạc trong biến loạn, do vậy địa vị của Độc Cô phi cao hơn hẳn so với các các vương phi.

Năm Càn Nguyên nguyên niên (758), Quảng Bình quận vương Lý Thục được cha là Đường Túc Tông lập làm Thái tử, đổi tên thành [Lý Dự]. Sang năm Thượng Nguyên thứ 2 (761), hoàng tôn Lý Huýnh, con trai của Độc Cô phi được Túc Tông phong làm Diên Khánh quận vương (延慶郡王).

Quý phi Đại Đường

Độc sủng không lập Hậu

Năm Bảo Ứng nguyên niên (762), sau khi Đường Túc Tông giá băng, Thái tử Lý Dự kế vị, tức Đường Đại Tông. Cùng năm, Diên Khánh quận vương Lý Huýnh được cải phong Hàn vương (韩王). Lúc này thời cuộc chưa định, Độc Cô thị vẫn chỉ là [Hậu cung; 後宮] - không rõ danh phận, chưa chính thức sách phong.

Năm Đại Lịch thứ 3 (768), tháng 2, ngày Canh Tý, Đại Tông sách phong Độc Cô phi làm Chính nhất phẩm Quý phi, địa vị cao nhất thời điểm đó do Đại Tông không sách lập ai trong hậu cung làm Hoàng hậu. Tuy là sủng phi nhưng Độc Cô Quý phi không được Đại Tông có ý lập Hậu,triều đại kéo dài hơn 10 năm của Đại Tông vĩnh viễn để trống ngôi vị chủ nhân hậu cung. Về việc này, sử gia hiện đại Bá Dương suy đoán Đại Tông không sách lập Hoàng hậu vì lo lắng cho ngôi vị Thái tử của con trưởng là Lý Quát, con trai duy nhất của Thẩm phu nhân. Nếu Quý phi trở thành Hoàng hậu, Lý Huýnh sẽ là Đích tử - địa vị cao quý hơn Lý Quát. Do trước giờ nhà Đường có truyền thống lập Đích tử làm người kế vị nên Lý Quát sẽ không được quần thần ủng hộ. Có tin đồn rằng, hoạn quan Lưu Trung Dực (劉忠翼) được Đại Tông tin dùng, từng cố gắng thuyết phục Đại Tông lập Độc Cô Quý phi làm Hoàng hậu, lập Hàn vương Huýnh làm Thái tử nhưng thất bại. Không rõ việc này là do Lưu Trung Dực cố ý kiến nghị hay Quý phi âm thầm sắp đặt, nhưng kết quả Đường Đại Tông vẫn gạt đi.

Đường Đại Tông đối đãi dòng họ Độc Cô thị khá hậu hĩnh, truy phong thụy hiệu cao quý cho cha bà, Độc Cô Dĩnh; ban thưởng cao cho chú bà, Thái Thường thiếu khanh Độc Cô Trác (獨孤卓) làm Thiếu phủ giám, anh bà là Độc Cô Lương Tá làm Thái tử trung doãn. Nhưng bù lại, Đại Tông chỉ cho Độc Cô thị ân sủng chứ không hề có đãi ngộ Hoàng hậu, như Đường Huyền Tông gia ân cho Võ Huệ phi và Dương Quý phi khi trước.

Qua đời truy tặng

Năm Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 6 tháng 10 (tức ngày 3 tháng 11 dương lịch), Quý phi Độc Cô thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Vài ngày sau, Đại Tông truy phong thụy hiệu cho bà là Trinh Ý hoàng hậu (貞懿皇后). Trong lịch sử nhà Đường, bà và Võ Huệ phi là hai phi tần duy nhất chưa từng làm Hoàng hậu hay chính thất của Hoàng đế, cũng không sinh ra Tân đế kế vị nhưng vẫn được truy tặng thụy hiệu Hoàng hậu.

Đau buồn trước sự ra đi của bà, Đại Tông không nỡ vội đem hạ táng, mà tạm lưu giữ quan tài của bà ở Tây điện thuộc Nội cung. Đến năm Đại Lịch thứ 13 (778), ngày 19 tháng 9, Đường Đại Tông mới chính thức an táng Trinh Ý hoàng hậu Độc Cô thị vào Trang Lăng (莊陵). Hoa Dương công chúa, trước đó được an táng tại vị trí khá ẩm thấp, sau đó được cải táng ngay cạnh mẹ mình. Đại Tông lệnh cho Thường Cổn (常袞) soạn văn tế thương tiếc hai người.

Nội dung tế văn:

Hậu duệ

Độc Cô Quý phi sinh hạ cho Đường Đại Tông 2 người con:

Hàn vương Lý Huýnh [韩王李迥; 750 - 16 tháng 8, 796], hoàng tử thứ 7.
Sơ phong Diên Khánh quận vương (延慶郡王) dưới thời Đường Túc Tông, sau khi Đại Tông đăng cơ cải phong Hàn vương. Do mẹ được sủng ái nên trong các hoàng tử, ông có vị thế rất cao. Năm 775, sắc phong làm Tiết độ sứ. Ông qua đời vào năm Trinh Nguyên, triều Đường Đức Tông.

Hoa Dương công chúa [華暘公主; ? - 10 tháng 6, 774], hoàng nữ thứ 5.
Vừa sinh ra đã nổi tiếng xinh đẹp, thông minh lanh lợi, là công chúa được sủng ái nhất trong các hoàng nữ. Công chúa cả đời không hạ giá, xuất gia làm đạo sĩ năm 772, hiệu là Quỳnh Hoa chân nhân (琼华真人). Khi Công chúa qua đời, Đại Tông buồn bã ngừng thiết triều vài ngày đến khi hoạn quan Ngô Thừa Sai (吳承倩) thuyết phục ông quay lại triều chính.

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Độc Cô** (giản thể: 独孤; phồn thể: 獨孤; bính âm: Dúgū) là một họ của người châu Á. Họ này xuất hiện chủ yếu ở Trung Quốc. ## Người Trung Quốc họ Độc Cô nổi
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
thumb|Tranh vẽ [[Dương Quý phi - vị Quý phi nổi tiếng nhất trong lịch sử]] **Quý phi** (chữ Hán: 貴妃; Bính âm: guìfēi), là một danh hiệu dành cho phi tần trong hậu cung của
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Lý Quỹ** (chữ Hán: 李揆, 711 – 784), tự **Đoan Khanh** (端卿), nguyên quán Thành Kỷ, Lũng Tây , tịch quán Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Đường Huyền Tông Võ Huệ phi** (chữ Hán: 唐玄宗武惠妃, ? - 737), còn gọi là **Trinh Thuận Hoàng hậu** (貞順皇后), là một sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, vị Hoàng đế thứ
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Minh Đại Tông** (chữ Hán: 明代宗; 21 tháng 9 năm 1428 – 23 tháng 3 năm 1457), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Trong 7 năm trị
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan** (, thường gọi là **Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan** và viết tắt là **MSUG**) là một chương trình hỗ trợ kỹ thuật được cung
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
**Khánh Cung Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慶恭皇貴妃; 12 tháng 8 năm 1724 - 21 tháng 8 năm 1774), Lục thị (陆氏), người Hán, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị** (chữ Hán: 穎貴妃巴林氏, 7 tháng 3 năm 1731 - 14 tháng 3 năm 1800), xuất thân Mông Cổ Tương Hồng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Mai phi** (chữ Hán: 梅妃), hay **Giang Mai phi** (江梅妃), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Tương truyền bà sở hữu thân hình mảnh khảnh, yêu thích hoa mai nên
**Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại** (tiếng Anh: **Museum of Modern Art**, viết tắt là **MoMA**) là một bảo tàng nghệ thuật tại Midtown Manhattan, Thành phố New York, nằm trên 53rd Street, giữa Fifth
**Dương Đại Nhãn** (chữ Hán: 杨大眼; ? - ?), là người dân tộc Đê (chữ Hán: 氐), danh tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế ###
**Tiết Lễ** (薛禮, 613-683), tự **Nhân Quý** (仁貴), là một danh tướng thời nhà Đường, phục vụ qua 2 triều vua Đường Thái Tông và Đường Cao Tông. Ông được biết đến nhiều bởi hình
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Đường ven biển Việt Nam** là một tuyến giao thông đường bộ đang được thi công, dài khoảng 3.041 km và cũng là tuyến đường bộ thứ 3 chạy từ Bắc vào Nam Việt Nam sau