✨Lý Quỹ (Trung Đường)

Lý Quỹ (Trung Đường)

Lý Quỹ (chữ Hán: 李揆, 711 – 784), tự Đoan Khanh (端卿), nguyên quán Thành Kỷ, Lũng Tây , tịch quán Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.

Khởi nghiệp

Quỹ là thành viên của nhánh Cô Tang thuộc sĩ tộc họ Lý quận Lũng Tây, nhưng đã ngụ cư ở Huỳnh Dương nhiều đời. Quỹ là chít (huyền tôn) của Cấp sự trung Lý Huyền Đạo, một trong 18 học sĩ của phủ Tần vương đầu đời Đường; con trai của Bí thư giám Lý Thành Dụ.

Từ nhỏ Quỹ thông minh hiếu học, giỏi Thuộc văn. Cuối niên hiệu Khai Nguyên (713 – 741) thời Đường Huyền Tông, Quỹ được cử Tiến sĩ, bổ làm Trần Lưu úy. Quỹ dâng thư lên hoàng đế, được tham gia kỳ thi văn chương để gia nhập Trung thư, rồi được cất nhắc bái làm Hữu thập di. Sau đó Quỹ được đổi làm Hữu bổ khuyết, Khởi cư lang, rồi làm Tri tông tử biểu sớ. Sau đó nữa Quỹ được thăng làm Tư huân Viên ngoại lang, Khảo công lang trung, rồi làm Tri chế cáo.

Quỹ cho rằng chủ khảo ra đề thi quá trúc trắc, nên người trúng tuyển chưa hẳn có tài và cũng không giỏi làm văn. Ngay tại trường thi Đình, Quỹ dùng Ngũ kinh, các bộ sử kết hợp với Thiết vận (切韵) để kiểm tra thí sinh. Trong thời gian vài tháng, việc cải cách thi cử nhận được nhiều lời khen ngợi, nhưng chưa xong thì Quỹ được thăng làm Trung thư thị lang, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự, Tập Hiền điện Sùng Văn quán đại học sĩ, Tu quốc sử, phong tước Cô Tang huyện bá.

Năm Càn Nguyên thứ 2 (759), tông thất đề nghị gia tôn hiệu "Dực thánh" cho Trương hoàng hậu, Túc Tông hỏi Quỹ, ông cho biết hậu phi còn sống được gia tôn hiệu xưa nay chỉ có Vi hoàng hậu của Đường Trung Tông, khiến hoàng đế cả sợ, đình chỉ việc này. Kinh sư nhiều giặc cướp, có người bị giết ở ngã tư, ném thây trong ngòi, khiến huyện lệnh (của kinh thành) chịu lột chức; Lý Phụ Quốc đang nắm quyền, xin chọn 500 kỵ binh của Vũ Lâm quân để tuần tra. Quỹ dâng sớ phản đối, cho rằng 2 đội quân Vũ Lâm – Kim Ngô có vai trò kiềm chế lẫn nhau, nay Vũ Lâm quân thay Kim Ngô quân tuần tra đêm, nếu có biến cố sẽ khó lòng chế ngự; vì thế yêu cầu của Phụ Quốc bị bác bỏ. Nhưng Quỹ e sợ quyền thế của Lý Phụ Quốc, bất chấp thân phận, gặp ông ta thì hành lễ như con em đối với bề trên, gọi là "ngũ phụ" (cha năm, vì Phụ Quốc là con trai thứ 5 trong nhà, được người đời gọi là "ngũ lang").

Năm Thượng Nguyên đầu tiên (760), Hưng vương Lý Thiệu mất, Quỹ được cầm cờ tiết, tuyên Sách mệnh, truy tặng Thiệu làm Cung Ý thái tử.

Trầm luân đến chết

Quỹ ở ngôi tể tướng, làm việc độc đoán, tuy kiến thức quảng bác nhưng tính hám danh lợi, nên bị người đời chê bai. Anh trai của Quỹ là Lý Giai cũng có tiếng tăm, nhưng chịu đình trệ ở chức vụ nhàn tản, mãi không được thăng tiến. Đồng nhiệm tể tướng với Quỹ là Lữ Nhân tuy không có xuất thân sĩ tộc, nhưng giỏi chánh sự hơn ông rất nhiều, sau khi chịu bãi tướng, từ chức vụ Thái tử Tân khách được ra làm Kinh Nam tiết độ sứ, người ta khen ngợi lắm. Quỹ sợ Lữ Nhân được trở lại, bèn bí mật lệnh cho người dò xét nhiệm sở của ông ta, hòng tìm kiếm lỗi lầm. Lữ Nhân cũng bí mật dâng sớ tố cáo việc làm của Quỹ, khiến Đường Túc Tông giận. Năm Thượng Nguyên thứ 2 (761), Quỹ chịu biếm làm Viên Châu trưởng sử Đồng chánh viên; chưa quá 3 ngày, Lý Giai được đổi thụ chức Tư môn Viên ngoại lang. Sau vài năm, Quỹ được lượng di làm Hấp Châu thứ sử.

Khi xưa Quỹ nắm quyền, thị trung Miêu Tấn Khanh nhiều lần tiến cử Nguyên Tái vào chức vụ quan trọng. Quỹ cậy mình xuất thân sĩ tộc, xem thường Nguyên Tái xuất thân bần tiện, không thu nhận, còn nói với Miêu Tấn Khanh rằng: "Kẻ sĩ vóc rồng dáng phượng không chọn dùng, đứa đầu hươu mắt chuột lại xin quan chức à?" Nguyên Tái nghe được, ngậm hờn rất sâu. Đến nay Nguyên Tái được làm tể tướng, còn Quỹ đang chịu lưu đày, bèn tấu cho ông làm Thí Bí thư giám, dưỡng bệnh ở Giang, Hoài. Quỹ không còn bổng lộc, khiến gia đình trở nên nghèo túng, cả trăm người phải ăn xin mới đủ sống. Quỹ trôi dạt qua hơn 10 châu, quan viên nơi nào khinh bạc quấy rối, ông lại dời đi, cứ thế lưu lạc cả thảy 16 năm. Quỹ đến Thổ Phiên, có tù trưởng hỏi rằng: "Nghe nói triều Đường có Đệ nhân nhân Lý Quỹ, là ngài phải không?" Quỹ sợ hãi mà ở lại, nhân đó nói dối rằng: "Lý Quỹ ấy, sao chịu đến đây!?"

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Quỹ** (chữ Hán: 李揆, 711 – 784), tự **Đoan Khanh** (端卿), nguyên quán Thành Kỷ, Lũng Tây , tịch quán Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
**Lý Quỹ** (, ? - 619), tên tự **Xử Tắc** (處則), là hoàng đế của nước Lương thời Tùy mạt Đường sơ. Ông cai quản vùng lãnh thổ ở bờ tây Hoàng Hà thuộc tỉnh
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Lý Quý Lan** (李贵蘭, mất 784), vốn tên là **Lý Dã** (李冶), có sách chép là **Lý Dụ** (李裕), **Lý Đãi** (李紿) là một nữ thi nhân, nữ đạo sĩ và kỹ nữ người Trung
**Nguyên Hiến Dương hoàng hậu** (chữ Hán: 元獻楊皇后; 699 - 729), cũng thường gọi **Dương Quý tần** (楊貴嬪), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ và là sinh mẫu của Đường
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Lý thuyết về ràng buộc** (TOC) là một mô hình quản lý mà quan sát bất kỳ hệ thống quản lý nào bị giới hạn trong việc đạt được nhiều mục tiêu hơn bởi một
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Quỳ** (chữ Hán: 李逵; bính âm: _Lǐ Kuí_) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Thủy hử của Thi Nại Am. Lý Quỳ là một trong những người khỏe nhất của 108
**Lý Tư** (chữ Hán: 李滋, 844–863) là hoàng tử của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, con trai thứ tư của hoàng đế Đường Tuyên Tông, mẹ là Ngô chiêu nghi (吴昭仪).
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Đường Kính Tông Quách Quý phi** (chữ Hán: 唐敬宗郭貴妃), là một phi tần của Đường Kính Tông trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh và tên thật của Quách quý
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
**Nhiễm trùng đường tiểu (tiết niệu)** (NTĐT) là một bệnh nhiễm trùng ảnh hưởng đến một phần của đường tiết niệu. Với trường hợp ảnh hưởng đến đường tiết niệu dưới thì được biết đến
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Lý Thế Tích** (李世勣) (594 – 1 tháng 1 năm 670), nguyên danh **Từ Thế Tích** (徐世勣), dưới thời Đường Cao Tông được gọi là **Lý Tích** (李勣), tên tự **Mậu Công** (懋功), thụy hiệu
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Tiết Lễ** (薛禮, 613-683), tự **Nhân Quý** (仁貴), là một danh tướng thời nhà Đường, phục vụ qua 2 triều vua Đường Thái Tông và Đường Cao Tông. Ông được biết đến nhiều bởi hình
**Lý Mật** (; 582 – 619), biểu tự **Huyền Thúy** (玄邃), lại có tự **Pháp Chủ** (法主), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy. Ban đầu, ông là
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
|} Mặt Trăng quay quanh Trái Đất theo hướng cùng chiều với chiều quay Trái Đất và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khi so sánh với các ngôi sao cố định trong khoảng
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Bình Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Dương được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh lỵ của tỉnh
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Hậu Đường Trang Tông** (), tên húy là **Lý Tồn Úc** (), tiểu danh **Á Tử** (亞子), là một nhân vật chính trị và quân sự trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Vụ hạ giàn khoan _Hải Dương-981**_ (HD-981) là sự kiện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) vào khu vực Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày
[[Tùy Dạng Đế, do họa sĩ thời Đường Diêm Lập Bản họa (khoảng 600–673)]] Chân dung [[Đường Cao Tổ]] **Tùy mạt Đường sơ** (隋末唐初) đề cập đến một giai đoạn mà trong đó triều đại
**Cao Quý Hưng** () (858. Khi còn nhỏ, ông là nô bộc cho một phú nhân tại Biện châu. Theo _Cựu Ngũ Đại sử_ và _Tư trị thông giám_, ông là nô bộc của Lý