✨Võ Tắc Thiên
Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay Vũ Tắc Thiên, thường gọi Võ hậu (武后) hoặc Thiên hậu (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu thứ hai của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán.
Cùng với tôn hiệu Thiên hậu của bà và tôn hiệu Thiên hoàng (天皇) của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là Nhị Thánh (二聖). Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu, triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Với việc không có một người phụ nữ nào trước và sau mình được công nhận Hoàng đế, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Dù vậy, Cựu Đường thư và Tân Đường thư vẫn chỉ gọi bà là "Thái hậu" ngay cả sau khi bà tự xưng hoàng đế, đó là vì vấn đề không nhìn nhận địa vị của bà trong thời đại cũ.
Trong 15 năm cai trị với tôn hiệu Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, nhưng đến giai đoạn sau thì Trung Quốc của bà bị mất nhiều lãnh thổ ở Mãn Châu và bán đảo Liêu Đông do sự thành lập của vương quốc Bột Hải năm 698 và Tiểu Cao Câu Ly năm 699. Nhiều lãnh thổ Trung Quốc ở phía tây bắc vào giai đoạn trị vì sau này của bà cũng bị mất vào tay Hãn quốc Hậu Đột Quyết. Sự ly khai của tộc Khiết Đan ở khu vực xung quanh Doanh Châu (Bắc Kinh ngày nay) và các cuộc xâm nhập của Hãn quốc Hậu Đột Quyết cũng từng gây uy hiếp lớn cho chính quyền của bà. Nội địa khuyến khích phát triển Phật giáo, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn-nữ ti đã ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần nhà Đường không phục. Cuối đời, bà có hai nam sủng là anh em họ Trương, Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, cùng họ dâm loạn trong cung, vì sủng ái hai anh em mà bà dung túng cho 2 người chuyên quyền, khiến nhiều quần thần bất bình. Tới năm 705, Tể tướng đương triều là Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thoái ngôi và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà bị giam lỏng ở Thượng Dương cung tại Lạc Dương cho đến khi qua đời không lâu sau đó, thọ 82 tuổi. Bà cũng trở thành 1 trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất, bên cạnh Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (87 tuổi) và Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế (89 tuổi).
Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ, thường so sánh bà với Lã hậu nhà Hán bởi sự chuyên quyền và tàn độc, được gọi chung là Lã Võ (吕武). Khi đánh giá khái quát lịch sử Trung Hoa, Võ Tắc Thiên cùng 2 vị "Nữ hoàng không miện" khác là Lã hậu và Từ Hi Thái hậu là 3 phụ nữ nắm quyền lực tối cao nhất từng xuất hiện trong các triều đình phong kiến Trung Hoa, bị dân gian coi là những người phụ nữ tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ xã tắc. Tuy nhiên, các nhà sử học từ sau những năm 1950 đã đánh giá bà cân bằng hơn. Võ Tắc Thiên có những chỗ dở như tàn nhẫn giết hại nhiều người thân, hà khắc làm người dân khiếp sợ, nhưng bà biết trọng dụng người tài, thuởng phạt nghiêm minh, nhân dân sống dưới thời bà được ăn no mặc ấm, an cư lạc nghiệp.
Thân thế và tên thật
nhỏ|trái|Chân dung mô phỏng Võ Tắc Thiên những năm 1690, tức gần 1000 năm sau cái chết của bà.
Tên thật nguyên bản của Võ Tắc Thiên không được ghi lại, cái tên Võ Chiếu (武曌) là bà tự sáng tạo ra, ví mình như mặt trời (nhật: 日), mặt trăng (nguyệt: 月) trên không trung (không: 空): (日+月+空=曌). Năm sinh của bà, căn cứ theo các cuốn Cựu Đường thư, Tân Đường thư lẫn Tư trị thông giám đều có mâu thuẫn. Trong sách Cựu Đường thư, Võ thị được ghi qua đời khi năm 83 tuổi, Một số đưa ra rằng Võ thị sinh ra năm Trinh Quán thứ 2 (628), đến cuối cùng, nhiều nhận định vẫn lấy năm Vũ Đức thứ 7 làm năm sinh của bà.
Bà xuất thân từ gia tộc họ Võ có nguồn gốc từ vùng Văn Thủy, Tinh Châu (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch, xuất thân trong một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, ông nội Võ Hoa, từng nhậm Quận thừa Lạc Dương giàu có. Mẹ bà là Dương thị, xuất thân từ gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ, là con gái của tông thất Dương Đạt (楊達) - em trai của Kiến Đức vương Dương Hùng (杨雄), con trai của Dương Thiệu (杨绍), tộc huynh của Tùy Văn Đế Dương Kiên của nhà Tùy. Trong nhà bà có 2 anh trai là Võ Nguyên Khánh và Võ Nguyên Sảng là con của chính thất Tương Lý thị (相里氏) đã qua đời; 1 người chị cùng mẹ là Võ Thuận và 1 em gái là phu nhân của Quách Hiếu Thuận (郭孝慎).
Ban đầu, Võ Sĩ Hoạch làm nghề buôn bán gỗ, cuộc sống gia đình tương đối khá giả, được triều Tùy ban chức "Ưng Dương phủ đội chính". Những năm Đại Nghiệp thời Tùy Dượng Đế, Đường Cao Tổ Lý Uyên khi ấy giữ tước Đường quốc công, từng nhiều lần đến vùng Phần, Tấn và thăm nhà họ Võ, hai bên có quan hệ thân thiết với nhau. Khi nhà Đường thành lập, nhà họ Võ được Đường Cao Tổ hậu đãi, ban cho bổng lộc, đất đai và trang sức rất nhiều. Về sau, Võ Sĩ Hoạch được ban nhiều chức vị quan trọng, làm đến chức Đô đốc Kinh châu, Thượng thư bộ Công, tước Ứng Quốc công (應國公).
Năm Trinh Quán thứ 9 (635), Võ Sĩ Hoạch qua đời. Đường huynh của Võ thị là Võ Duy Lương, Võ Hoài Vận cùng anh thứ Võ Nguyên Sảng đối xử với mẹ bà là Dương phu nhân rất vô lễ, từ đó Võ thị và các anh em có hiềm khích. Lúc đó, mẹ bà là Dương thị than khóc không thôi, bà cố gắng an ủi mẹ mình: "Cớ chi mẹ lại bảo gặp được Thiên tử không phải là phúc phận của con". Qua lời an ủi đó, Dương thị đoán ra được chí lớn của con mình, nên thôi không khóc nữa.
Năm Trinh Quán thứ 17 (643), Đường Thái Tông phế truất Thái tử Lý Thừa Càn, lập Tấn vương Lý Trị làm Thái tử. Từ đây, Võ Tài nhân thường ở bên cạnh phụng dưỡng, hầu thuốc cho Thái Tông, liền bị Thái tử trông thấy mà say mê. Năm thứ 23 (649), Đường Thái Tông qua đời. Thái tử Lý Trị lên nối ngôi, tức Đường Cao Tông. Trong hơn 10 năm làm tài nhân, Võ thị không hề sinh được một người con nào, vì thế theo di mệnh của tiên hoàng đế, bà và tất cả các phi tần không có con khác phải cạo tóc, xuất gia làm ni cô, vào tu ở Cảm Nghiệp tự (感業寺). Vào lúc này, Võ thị đang mang thai đứa con đầu lòng, là Lý Hoằng.
Quay lại hậu cung
Năm Vĩnh Huy thứ 3 (652), Võ thị sinh con trai Lý Hoằng, là hoàng tử thứ 5 của Cao Tông. Thời gian Võ thị chính thức mang thai và hạ sinh Lý Hoằng không được ghi lại tỉ mỉ, thậm chí thời điểm Võ thị trở về cung cũng không rõ ràng, do đó có nhiều giả thiết cho rằng bà mang thai và hạ sinh tại chùa Cảm Nghiệp, và đó là lý do càng khiến Cao Tông muốn đưa bà hồi cung trao danh phận. Tháng 5 năm ấy, gần như ngay lập tức, Võ thị được bái làm Chiêu nghi, tước vị rất cao trong hàng ngũ cung tần. Từ khi về cung, Võ thị ra sức lấy lòng Đường Cao Tông và Vương Hoàng hậu, cả ba người Võ thị, Vương thị cùng Tiêu thị tranh sủng khiến hậu cung không yên, đến Cao Tông cũng không thấy thoải mái. Võ thị biết tính khí Cao Tông, lại biết thông đồng cùng những người hầu không tận tâm của Vương thị và Tiêu thị, vì vậy chỉ có Võ thị có thể tùy cơ hành xử, dần dần được Cao Tông nghe theo. Tuy Võ Chiêu nghi sinh hạ con trai, được nhà vua rất mực yêu quý, song ngôi vị Hoàng thái tử trong cung vẫn đang thuộc về Lý Trung, tuy chỉ là do một tỳ thiếp sinh ra nhưng lại là con trai trưởng của Cao Tông, được Vương Hoàng hậu nhận làm con nuôi.
Năm Vĩnh Huy thứ 5 (654), tháng giêng, Võ Chiêu nghi hạ sinh một con gái, An Định Tư Công chúa, tuy nhiên vị công chúa này không bao lâu sau thì mất. Căn cứ theo hai cuốn sách đều được soạn dưới thời nhà Tống là Tân Đường thư và Tư trị thông giám, cả hai đều chỉ ra rõ ràng chính Võ thị đã giết đứa bé để hãm hại Vương Hoàng hậu, trở thành một nguyên do khiến Cao Tông muốn phế hậu và đưa Võ thị lên thay. Theo cách nói của hai cuốn sách này, vào lúc Vương thị đi thăm công chúa và trở về cung, thì Võ Chiêu nghi liền dùng chăn bịt mũi công chúa đến chết, sau đó lại đắp chăn lên che giấu. Khi đó, Cao Tông đến thăm công chúa, Võ thị vui vẻ chào đón, lúc mở chăn ra thì phát hiện công chúa đã chết. Cao Tông buồn bực hỏi người thị nữ, tất cả đều nói "Hoàng hậu từng ở đây", Võ thị khóc bi thương, còn Cao Tông thì tức giận mắng: "Hoàng hậu giết con gái ta, trước cùng Phi sàm mạo, nay thực có ý tà niệm!", nước cờ đổ lỗi của Võ Chiêu nghi hoàn thành mỹ mãn. Ngay khi Cao Tông nói lời ấy, Võ thị mới khóc tố tội của Hoàng hậu, trong khi Vương Hoàng hậu không còn cách nào để tự biện minh. Từ đó, Đường Cao Tông nảy ý phế truất Vương thị và đưa Võ Chiêu nghi lên thay. Tuy nhiên, sự việc này có vấn đề về tính chân thật, bởi vì Cựu Đường thư và Đường hội yếu (唐会要) đều chỉ nói qua việc An Định chết đột ngột mà không nói nguyên nhân, sách Cựu Đường thư cũng là sách soạn thời gian sau khi nhà Đường diệt vong chứ không phải là trong triều Đường, nếu có bất kì lời đồn đương thời thì cũng không thể không ghi vào, không cần phải đợi hai sách chính phủ đời Tống soạn mới xuất hiện.
Sau sự kiện trên, Đường Cao Tông đã có ý triển khai phế Vương Hoàng hậu mà lập Võ Chiêu nghi, đây được gọi là Phế Vương lập Võ (廢王立武). Lúc ấy triều đình lấy Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Chử Toại Lương (褚遂良) là nguyên thủ lĩnh triều, xuất thân đại tộc và huân công thế gia, đương thời có quyền lực cực lớn, mà Đường Cao Tông tuy lên ngôi nhiều năm vẫn luôn bị áp chế. Do vấn đề này, không ít nhận định tin tưởng Cao Tông mượn chuyện phế hậu là nhằm công kích phe cựu thần, chấn chỉnh triều cương. Võ Chiêu nghi từ đấy cũng trở thành "chiến hữu" của Cao Tông. Trong triều, Trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ (李義府), Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông (許敬宗) đều ủng hộ lập Võ thị làm hoàng hậu, tình hình phe phái cũng càng gay gắt hơn. Thời gian sau, Đường Cao Tông đề nghị muốn phong Võ Chiêu nghi làm Thần phi (宸妃), cuối cùng vì Thị trung Hàn Viện (韩瑗) và Trung thư lệnh Lai Tế (來濟) phản đối mới bèn thôi.
Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), mùa hạ, tháng 6, Võ Chiêu nghi tố cáo mẫu thân của Vương Hoàng hậu là Ngụy Quốc phu nhân Liễu thị đã cùng Hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Cậu của hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích (柳奭) bị giáng chức. Trong lúc đó, Trung thư Xá nhân Lý Nghĩa Phủ vốn bị Trưởng Tôn Vô Kỵ ghét, vốn bị Vô Kỵ biếm chức, nhân đó dâng sớ xin phế Hậu lên Cao Tông. Cao Tông vui mừng, bèn cho triệu Lý Nghĩa Phủ vào cung, cho phục chức. Phe cánh của Võ Chiêu nghi ngày càng lớn mạnh. Mùa thu năm ấy, Cao Tông triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương và Lý Thế Tích vào hỏi ý kiến việc phế hậu, Lý Thế Tích cáo ốm không tới. Trong buổi nghị sự, Chử Toại Lương đều lên tiếng can ngăn Cao Tông, còn Trưởng Tôn Vô Kỵ im lặng để tỏ ra không hài lòng. Khi Lý Thế Tích nhập triều, Cao Tông đến hỏi Lý Thế Tích, Tích nói: "Đó là gia sự của bệ hạ, không cần hỏi đến ngoại thần". Vấn đề "Phế Vương lập Võ" càng lúc càng có lợi cho Võ Chiêu nghi.
Hoàng hậu nhà Đường
Giành lấy quyền lực
Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), ngày 13 tháng 10 (tức ngày 27 tháng 11 dương lịch), Đường Cao Tông lấy tội danh "Âm mưu hạ độc" (謀行鴆毒), ra chỉ phế truất Hoàng hậu Vương thị và Thục phi Tiêu thị làm thứ nhân, đều giam vào biệt viện, đồng thời đày gia tộc đến Lĩnh Nam. Sau đó 7 ngày, tức ngày 20 tháng 10 (âm lịch), Đường Cao Tông lần nữa hạ chiếu đem lập Võ Chiêu nghi làm hoàng hậu. Đường Cao Tông lệnh hai người Lý Tích cùng Vu Chí Ninh đem tỉ thụ hoàng hậu đến làm lễ sách lập cho Võ hậu, đồng thời cũng mệnh "Tứ di tù trưởng" đến ngoài chúc mừng ở Túc Nghĩa môn (肅義門) và mệnh phụ vào nội điện triều bái Võ hậu. Điển lệ quan viên và mệnh phụ triều bái hoàng hậu trong dịp sách lập của các triều đại sau đều từ đó mà thành.
Tuy đã là hoàng hậu, Võ thị vẫn không dừng lại việc thủ tiêu các kẻ thù của mình, bắt đầu từ Vương thị, Tiêu thị cùng thái tử đương nhiệm là Lý Trung. Kể từ khi bị phế thì Vương thị và Tiêu thị được chuyển vào một biệt viện, Cao Tông mềm lòng hay đến thăm và dự định thả họ ra, Võ hậu hay tin bèn giết cả hai người một cách rất tàn nhẫn. Sau khi xử lý hai người này rồi, Võ hậu tiếp tục giải quyết Thái tử Lý Trung để đem ngôi vị về cho con trai mình. Đầu năm Hiện Khánh nguyên niên (656), Hoàng thái tử Lý Trung bị phế truất. Trước đó, đại thần Hứa Kính Tông dâng sớ xin thay luôn ngôi hoàng thái tử, phế Lý Trung mà lập con trai cả của Võ Hoàng hậu là Lý Hoằng. Vì lý do này, Đường Cao Tông ép Thái tử viết biểu nhường ngôi, Thái tử bất đắc dĩ phải nghe theo. Tháng 2 năm ấy, Cao Tông lập Đại vương Lý Hoằng làm hoàng thái tử và giáng Thái tử Lý Trung làm "Lương vương" (梁王), lại cho Trung nhậm lĩnh Đô đốc Lương châu, đây đều là thông lệ của tất cả các phiên vương tông thất nhà Đường.
Từ năm Hiện Khánh thứ 2 (657), Võ hậu cùng phe đảng tìm cách trả thù những người không ủng hộ mình, ban đầu là Chử Toại Lương và Hàn Viện. Cùng năm ấy, Đường Cao Tông hạ chỉ giáng Chử Toại Lương làm Đô đốc Đàm Châu. Cuối cùng, Chử Toại Lương bị biếm đến Quế Châu rồi Ái Châu, An Nam, cuối cùng uất ức mà chết vào tháng 10 (ÂL) sang năm, tức năm 658 công lịch. Vào năm Hiện Khánh thứ 4 (659), Võ hậu giật dây cho Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ hãm hại Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng các thế lực chống đối khác dứt điểm. Lúc đó, có người tố cáo hai viên quan là Vi Quý Phương (韋季方) và Lý Sào (李巢) mưu làm việc trái phép, Đường Cao Tông giao cho Hứa Kính Tông điều tra. Kính Tông dụ dỗ Quý Phương khai rằng Triệu Quốc công Trưởng Tôn Vô Kỵ có thông đồng với mình. Cao Tông bất ngờ về việc này, lại sai Kính Tông đưa Vô Kị ra tra xét. Cuối cùng, Vô Kị bị bãi bỏ phong ấp và chức Thái úy, giáng làm Dương Châu Đô đốc, đày đến Kiềm Châu. Hứa Kính Tông nhân đó tố cáo Chử Toại Lương cùng Hàn Viện và Liễu Thích. Viện và Thích bị bãi chức, còn Chử Toại Lương tuy đã chết cũng bị trừ quan tước. Cuối cùng, Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng bị bức tử trong năm đó. Kết cuộc của Hàn Viện cũng không khá hơn, sau khi bị đoạt chức tước thì ông bị biếm làm Thứ sử Ái Châu. Những người khác như Vu Chí Ninh (于志寧) và Lai Tế (來濟), khi trước cũng thuộc phe Cựu thần phản đối lập Võ thị, nay cũng đều bị điều đi khỏi kinh sư.
Đến tận đây, Đường Cao Tông Lý Trị mới bắt đầu công cuộc quân chủ tập quyền để nắm được quyền lực tuyệt đối cho các hoàng đế nhà Đường về sau. Từ khi Tào Ngụy và nhà Tấn đến khi sự kiện "Phế Vương lập Võ" diễn ra, quân chủ của nền chính trị Trung Quốc chịu thời gian dài bị tầng lớp quan lại kiềm chế. Nhờ sự kiện này, chính quyền quân chủ một lần nữa được cải thiện, đối với cục diện lịch sử về sau cũng ảnh hưởng rất lớn.
Tranh chấp gia tộc
Trước kia, Võ Sĩ Hoạch lấy vợ cả là Tương Lý thị, sinh hai con trai Nguyên Sảng, Nguyên Khánh; sau lại lấy Dương thị sinh ba con gái: người con đầu là Võ Thuận lấy Hạ Lan An Thạch (賀蘭安石), thứ hai là Võ hậu, người thứ ba lấy Quách Hiếu Thân (郭孝慎) và mất sớm. Sĩ Hoạch chết, Nguyên Sảng, Nguyên Khánh cùng con người anh Sĩ Hoạch là Võ Duy Lương (武惟良), Võ Hoài Vận (武懷運) tỏ ra bất kính với Dương thị nên bị bà ta ghét. Khi đó, An Thạch và Hiếu Thận cũng đã chết, vợ An Thạch sinh ra Hạ Lan Mẫn Chi (賀蘭敏之) và một người con gái. Võ hậu từ khi được lập, Dương thị trở thành "Vinh Quốc phu nhân" (榮國夫人); vợ An Thạch là Võ Thuận làm "Hàn Quốc phu nhân" (韓國夫人), bọn Nguyên Sảng đều được phong chức vị cao. Vào một hôm, Vinh Quốc phu nhân bày tiệc rượu trong gia đình, bọn Duy Lương tỏ thái độ bất mãn, phu nhân rất giận. Võ hậu biết chuyện, liền đày bọn Duy Lương làm Thứ sử các Châu xa. Nguyên Khánh, Nguyên Sảng lo buồn mà chết.
Gia tộc hiển quý, Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận và con gái Hạ Lan thị thường ra vào cung, có tin đồn cả hai là tình nhân của Cao Tông. Khi Hàn Quốc phu nhân đột ngột qua đời, Cao Tông phong cho con gái Võ thị là Hạ Lan thị làm "Ngụy Quốc phu nhân" (魏國夫人), lại muốn nạp vào cung để tư thông. Võ hậu nảy sinh ghen tuông, tỏ ra không bằng lòng. Khi bọn Duy Lương, Hoài Vận về kinh và dâng đồ ăn, Võ hậu bí mật bỏ độc vào đó và đem đến cho Ngụy Quốc, khiến Hạ Lan thị bị trúng độc mà chết. Sau đó, Võ hậu quy tội cho Duy Lương, Hoài Vận và giết hết đi.
Con trai Hàn Quốc phu nhân là Hạ Lan Mẫn Chi, vốn được cải họ Võ làm kế tự cho Võ Sĩ Hoạch, nên từ trước đã được kế tập tước "Chu Quốc công" (周國公). Sau khi mẹ và em gái chết, Mẫn Chi ngày càng trở nên phóng túng, Võ hậu sinh lòng chán ghét. Mẫn Chi cư nhiên tư thông với con gái Dương Tư Kiệm (杨思俭) - vốn đang chờ tuyển làm Thái tử phi cho Thái tử Lý Hoằng. Biết tin, Võ hậu tức giận mà đem Mẫn Chi đày đi Lôi Châu, đổi sang họ cũ là họ Hạ Lan, tước đi tước hiệu Chu Quốc công. Con trai Võ Nguyên Sảng là Võ Thừa Tự (武承嗣) được triệu về kinh kế thừa tước Chu Quốc công thay thế Mẫn Chi.
Nhị Thánh lâm triều
Từ năm Hiện Khánh thứ 5 (660), Võ hậu cùng với Cao Tông đi tuần du vùng quê nhà là Bân Châu. Bà tổ chức yến tiệc thật lớn, mời hàng xóm và thân tộc đến dự. Cuối năm này, Đường Cao Tông phát chứng đau đầu, sức khỏe suy yếu nghiêm trọng. Có lời đồn việc đó là do Võ hậu ngầm bỏ thuốc độc bộc phát chậm vào đồ ăn của ông. Nhân việc này, Võ hậu can dự vào triều chính, quyết định nhiều việc trong triều, bắt đầu lấn át Cao Tông. Sử sách ghi nhận bà tinh thông văn sử, giải quyết công việc hiệu quả nhanh gọn, quyền lực của Cao Tông từ đây bị thu hẹp. Việc Võ hậu can thiệp vào công việc triều chính quá nhiều khiến Đường Cao Tông không hài lòng, dần dần giữa hai người xuất hiện mâu thuẫn. Bởi vì khi trước Võ hậu luôn nhu thuận, làm đúng ý niệm của Cao Tông, cho nên Cao Tông luôn muốn lập bà làm hoàng hậu để chứng tỏ quyền hạn của mình. Đến đây khi Võ hậu bộc lộ rõ khả năng của mình, đối với Đường Cao Tông hẳn nhiên là cảm giác không hài lòng.
Năm Lân Đức nguyên niên (664), đạo sĩ Quách Hành Chân (郭行真) thường ra vào cung cấm làm tà thuật. Đường Cao Tông biết việc này là do Võ hậu chủ mưu nên rất tức giận, triệu đại thần Thị lang Thượng Quan Nghi (上官儀) vào cung. Nghi tâu rằng: "Hoàng hậu chuyên quyền, không giữ đạo làm vợ, cần phải phế đi". Cao Tông chấp thuận, lệnh cho Nghi tìm cơ hội mà ra tay. Có quan viên hầu trực đem chuyện này tố cáo với Võ hậu, bà bèn đến chỗ Cao Tông kêu khóc thảm thiết. Cao Tông không biết trả lời ra sao, bèn đổ hết mọi chuyện cho Thượng Quan Nghi. Tháng 12 năm đó, Võ hậu sai Hứa Kính Tông tố cáo Thượng Quan Nghi và Phế Thái tử Lương vương Lý Trung phản nghịch, bắt Nghi hạ ngục rồi ban rượu độc cho Lương vương Lý Trung. Sang đầu năm sau (665), mùa xuân, Thượng Quan Nghi và con là Thượng Quan Đình Chi (上官庭芝) bị chém đầu. Từ đây mỗi khi Cao Tông thiết triều, Võ hậu đều buông rèm ngồi sau bảo tọa cùng tham dự, sử gọi là Nhị Thánh (二聖). Thời Đường hay xưng thiên tử là Thánh nhân (聖人), nên khi Võ hậu cũng cùng Cao Tông lâm triều, tự nhiên có tới hai vị thánh nhân. Do đó, lịch sử gọi giai đoạn này là Nhị Thánh lâm triều (二聖臨朝).
Từ khi nắm chính quyền, triều đình Cao Tông dưới bàn tay của Võ hậu ngày càng hưng thịnh. Do đó, bà tích cực khuyên ông tiến hành khuếch trương thế lực cùng địa vị của hai người bằng cách tiến hành đại lễ Phong thiện (封禅) ở núi Thái Sơn. Cái gọi là "phong thiện", chính là một loại đại lễ cổ đại, xảy ra vào lúc thái bình thịnh thế, các thiên tử vì muốn chứng tỏ quyền uy mà tiến hành các loạt lễ tế cáo Trời và Đất - hai nhân tố tối cao trong văn hóa Trung Hoa. Đây được gọi là đại lễ bởi vì cần trải qua một chu kì lễ nghi phức tạp ở một địa điểm xa kinh thành, hơn nữa là tụ tập đủ loại quan viên trong triều đình, do đó phương tiện đi lại cùng nhân lực đều tiêu tốn rất lớn. Theo quy tắc, trong buổi lễ thì thiên tử sẽ tế với vai trò "Sơ hiến" (初献), còn công khanh là "Á hiến" (亚献), nhưng Võ hậu vì thấy lý do thiên tử biểu thị Hoàng Thiên, còn hoàng hậu vị biểu thị Hậu Thổ, do đó muốn tự mình đảm nhận vị trí Á hiến sau Cao Tông. Ý kiến này của bà nhanh chóng được Cao Tông đồng thuận. Vì thế vào năm Lân Đức thứ 2 (665), tháng 10, Đường Cao Tông dẫn suất Văn võ bá quan, còn Võ hậu suất dẫn mệnh phụ, đồng thời từ Đông Đô Lạc Dương xuất phát đến Thái Sơn. Đi cùng đến dự có các đặc sứ nhóm quốc gia có quan hệ triều bái với nhà Đường là Đột Quyết, Nhật Bản, Ba Tư,... để chứng kiến đại lễ vinh hiển này của vợ chồng Cao Tông.
Năm Thượng Nguyên nguyên niên (674), tháng 8, Đường Cao Tông nhân dịp truy tôn thêm thụy hiệu cho các hoàng đế và hoàng hậu, thì đổi xưng là Thiên hoàng (天皇), Võ hậu là Thiên hậu (天后), để tránh danh xưng hoàng đế và hoàng hậu của các vị đời trước, nhân dịp này cũng đại xá thiên hạ. Thiên hậu dâng lên Thiên hoàng một danh sách gồm 12 điều để trị quốc, được gọi là Kiến ngôn thập nhị sự (建言十二事), tất cả đều được Thiên hoàng thông qua. Do tư liệu thiếu khuyết, không có bất kỳ thông tin nào về sự hiệu quả của 12 điều này.
Nội dung đại khái:
Thay ngôi Thái tử
Thiên hoàng sức khỏe ngày càng suy yếu, có ý nhường ngôi cho Thái tử Lý Hoằng, nhưng Thiên hậu không đồng tình. Về phần mình, Thái tử vốn thông minh, tri thư đạt lễ, nhân nghĩa hiếu thảo, nhiều lần giúp Cao Tông xử lý chính sự nên rất được vua cha yêu quý. Nhưng từ khi vua cha lâm bệnh, Thái tử vì cha mà gồng mình xử lý chính sự cộng thêm thể chất yếu ớt, bệnh tật, cuối cùng do quá lao lực mà tái phát bệnh cũ rồi qua đời. Thiên hoàng quá đau lòng vì cái chết của con trai, bèn truy tặng làm "Hiếu Kính Hoàng đế" (孝敬皇帝). Sau đó, Thiên hoàng ra chỉ lập Hoàng lục tử là Ung vương Lý Hiền làm thái tử.
Thái tử Lý Hiền là người thông minh, quyết đoán mạnh mẽ, xử lí chính sự dứt khoát quyết đoán, thưởng phạt công minh, được cả triều đình và Cao Tông kì vọng rất lớn. Nhưng không may cho Lý Hiền, thời điểm ông lên làm thái tử là lúc Võ hậu tham quyền nhất, muốn thao túng triều chính, thấy con trai mình tài năng nổi trội lại có tham vọng lấn lướt mình nên cực kì không vui. Khi ấy, trong cung có lời đồn đãi Thái tử vốn do Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận sinh ra, Thái tử Hiền biết chuyện này trong lòng cảm thấy bất an, thái độ tỏ ra ngoài nét mặt. Thiên hậu nghe vậy càng ghét hơn. Đạo sĩ Minh Sùng Nghiễm (明崇儼) được Thiên hoàng và Thiên hậu coi trọng, thường gièm pha với bà: "Thái tử không thể thừa kế được, Anh vương có dung mạo giống Thái Tông, Tương vương về sau sẽ đại quý". Sau đó, Thiên hậu cho soạn Thiếu Dương chánh phạm (少陽政範) và Hiếu tử truyện (孝子傳) ban cho ông, lại nhiều lần quở trách ông ta vô cớ, nên Thái tử khi ấy trong lòng luôn rất bất an.
Năm Điều Lộ thứ 2 (680), Minh Sùng Nghiễm bị cuồng bạo đánh giết, Thiên hậu nghi ngờ là do Thái tử Hiền làm, nên càng ghét hơn. Không lâu sau, các phe cảnh Tiết Nguyên Siêu (薛元超), Bùi Viêm (裴炎), Cao Trí Chu (高智周) với sự giật dây của Thiên hậu đã tố cáo Thái tử Hiền mưu đồ bất chính. Thiên hoàng sai điều tra, lục soát được trong phủ Thái tử nhiều đồ binh khí. Khi biết được, Thiên hoàng không nỡ trị tội thế nhưng Thiên hậu nói: "Là con dân mà mưu nghịch, thiên địa bất dung; nay đại nghĩa diệt thân, có thể nào xá được?". Thế là Thiên hậu liền hạ lệnh phế Thái tử, đày ra Ba Thục. Thái tử khi còn là Chu vương đã kết hôn với Triệu thị, con gái Thường Lạc Công chúa (常樂公主) - cô của Thiên hoàng, đồng thời là con gái út của Đường Cao Tổ Lý Uyên, so với Thái tử thì Triệu thị là biểu cô. Thiên hoàng rất tán thành cuộc hôn nhân này, và vì duyên cố của Thường Lạc Công chúa mà rất thiên vị Triệu thị, song Thiên hậu không ưa Công chúa, vì thế đối với Triệu thị cũng chán ghét. Vào một dịp, Triệu thị do đắc tội với Thiên hậu liền bị giam lỏng trong Nội thị tỉnh, chỉ được đưa rau, thịt sống cho tự nấu ăn. Dần dần Triệu thị chết đói, Thiên hậu bèn đày cha Triệu thị là Triệu Côi (趙瑰) cùng Thường Lạc Công chúa ra đến Hoạt Châu.
Lâm triều xưng chế
Phế truất Trung Tông
Năm Vĩnh Thuần thứ 2, tức Hoằng Đạo nguyên niên (683), Thiên hoàng di giá Phụng Thiên cung (奉天宮) lâm bệnh. Biết mình không xong, ông bèn triệu Hoàng thái tử từ Trường An về Lạc Dương, mệnh Thái tử giám quốc và giao cho đại thần Bùi Viêm cùng Lưu Cảnh Tiên (劉景先) và Quách Chính Nhất (郭正一) cùng phụ chính. Sau đó, ông chuyển về Lạc Dương, bệnh chuyển nặng hơn, tể tướng cùng đại thần đều không thể tấn kiến.
Ngày 4 tháng 12 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), Thiên hoàng băng hà ở Trinh Quán điện (貞觀殿). Khi ông lâm chung, cho cận thần viết di chiếu: "Sau 7 ngày tạm quàn, Hoàng thái tử lên ngôi hoàng đế trước linh cữu. Về chế độ viên lăng, nên chủ trương tiết kiệm. Quân quốc đại sự có việc không thể quyết định, liền nhờ Thiên hậu quyết định!". Theo di chiếu này, Hoàng thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông, Thiên hậu Võ thị trở thành Hoàng thái hậu. Căn cứ theo di chiếu của Cao Tông thì mọi việc trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán, do đó Võ hậu là vị hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Đường, chính thức thực hiện việc nhiếp chính, thay quyền Trung Tông xử lý phần lớn đại sự. Sách sử gọi việc thái hậu nhiếp chính là Lâm triều xưng chế (臨朝稱制). Ở các triều đại trước, mẫu hậu lâm triều chỉ khi nhà vua còn nhỏ, lúc này Trung Tông kế vị đã 28 tuổi, nhưng bởi vì di chiếu của Cao Tông mà Võ Thái hậu tiếp tục nắm giữ quyền lực, điều này khiến trong triều dần xảy ra tranh chấp.
Năm Tự Thánh nguyên niên (684), tháng 2 (ÂL), Trung Tông muốn tạo đối trọng với Võ Thái hậu trong triều, nên phong nhạc phụ Vi Huyền Trinh làm Thị trung trông coi Môn hạ tỉnh, chức vụ này có quyền uy quá lớn, trong khi họ Vi không có tài cán. Tể tướng Bùi Viêm hết sức can ngăn nhưng Trung Tông không nghe, nói lại: "Ta đem cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, huống hồ một chức Thị trung lang sao?!". Bùi Viêm cố cãi lại không được, bèn mật cáo với Thái hậu. Ngày 26 tháng 2 (dương lịch), Thái hậu được Bùi Viêm, Lưu Y Chi, Trình Vụ Đĩnh, Trương Kiền Úc đưa vào triều, tuyên chiếu phế truất Trung Tông làm Lư Lăng vương. Khi bị lôi xuống, Trung Tông cố hỏi: "Con có tội gì?!", Võ Thái hậu đanh thép đáp: "Nhà ngươi đem thiên hạ đưa cho Vi Huyền Trinh, còn không có tội ư?!", do đó Thái hậu bèn giam Trung Tông vào biệt cung, đổi tên thành "Triết". Thái hậu đưa Dự vương Lý Đán lên ngôi, tức là Đường Duệ Tông.
Võ Thái hậu đày Lư Lăng vương ra Quân Châu rồi Phòng Châu, ở ngôi nhà mà Bộc vương Lý Thái từng ở sau khi bị Thái Tông giáng tước. Sau khi lập Duệ Tông, bà tiếp tục lâm triều xưng chế, tự mình chuyên chính như trước. Bà lập tức hạ chiếu nói Vi Huyền Trinh mưu nghịch, tước bỏ tất cả chức vị, giáng làm thứ dân và tống vào ngục, sau cũng bị lưu đày. Đường Duệ Tông khi ấy tuy ở ngôi vị và đã trưởng thành, nhưng bị ép phải sống ở cung riêng, không được tham gia chính sự, việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán. Bà cho lập con trai của Tân Đế là Lý Thành Khí kế thừa vị trí trữ quân.
Độc bá triều cương
Ngày Giáp Tý tháng ấy (ÂL), Võ Thái hậu ngự ở Võ Thành điện (武成殿), Duệ Tông suất vương công đến dâng tôn hiệu. Mấy hôm sau, sai Võ Thừa Tự công bố chế sách lập hoàng đế mới. Từ lúc này, Thái hậu lên triều nghe chính ở Tử Thần điện (紫宸殿), buông rèm màu tím nhạt để triều kiến quần thần. Vừa yên vị, Võ Thái hậu mệnh Thái thường khanh, Kiểm giáo Dự vương phủ Vương Đức Chân làm Thị trung, Trung thư Thị lang Lưu Y Chi và Lễ bộ Thượng thư Võ Thừa Tự làm Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự. Lúc này Thái tử bị truất phế trước đây, Lý Hiền, đã bị ép phải uống rượu độc mà chết, Thái hậu quy tội Tả Kim ngô tướng quân Khâu Thần Tích, biếm làm Thứ sử Điệp Châu, nhưng không lâu sau thì phục chức, rồi truy tặng Lý Hiền là "Ung vương".
Tháng 9 (ÂL) cùng năm, Thái hậu cải nguyên là Văn Minh, đổi Đông Đô Lạc Dương thành Thần đô (神都), cung riêng của bà gọi là Thái Sơ cung (太初宮), ngự chế cờ xí đều dùng sắc vàng, lại cho cải Thượng thư tỉnh là Văn Xương đài, Tả hữu bộc xạ là Tả Hữu tướng; Lục tào thành Lục quan; Trung thư tỉnh đổi là Phụng các; Thị trung là Nạp ngôn; Trung thư lệnh là Nội sử lệnh; Ngự sử đài thành Tả túc chánh đài. Từ năm đầu Thùy Củng (685), Võ Thái hậu đổi tên của Càn Nguyên điện thành Minh đường (明堂), bắt đầu dan díu với một tên hòa thượng giả danh gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Sau đó, Tiết Hoài Nghĩa dần được phong các chức vụ cao, trở thành tâm phúc riêng của Thái hậu. Tiết Hoài Nghĩa là người đất Hộ, nguyên danh là Phùng Tiểu Bảo, một lần được con gái nuôi của Thái hậu là Thiên Kim Công chúa tiến cử, Thái hậu nhìn thấy liền rất ưa thích, bèn cho giả làm tăng sư với tên "Hoài Nghĩa", cho theo họ với Phò mã Tiết Thiệu. Được sủng ái, Tiết Hoài Nghĩa tự do ra vào cung cấm, thế lực rất lớn, đến cả Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng tìm cách lấy lòng. Sau khi hoàn thành Minh đường, Hoài Nghĩa được bái làm "Tả Uy vệ Đại tướng quân" (左威衛大將軍), tước "Lương Quốc công" (梁國公).
Phe cánh chống đối
Tượng Phật bằng đá được tạc dưới thời Võ Chu. Cuối năm Tự Thánh (684), Thứ sử Mi Châu, Anh Quốc công Từ Kính Nghiệp, cùng em là Từ Kính Du và các thuộc tướng như Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương, Đỗ Cầu... hợp nhau nổi dậy ở Dương Châu, lấy danh nghĩa khôi phục Đường Trung Tông. Sử gọi đây là Từ Kính Nghiệp chi phản (徐敬業之反). Trong nhiều năm cầm quyền của Võ hậu trước khi chính thức tự xưng hoàng đế, đây là một trong những cuộc chống đối lớn nhất và quy mô nhất.
Từ Kính Nghiệp vốn là cháu của Anh Trinh Vũ công Lý Tích - một trong những công thần hàng đầu của triều Đường, vốn là họ Từ. Vì công lao hiển hách, được Đường Thái Tông Lý Thế Dân ban quốc tính là "Lý", nhưng khi Kính Nghiệp chính thức tạo phản thì Võ Thái hậu đổi thành họ Từ như cũ. Bọn họ loan tin trưởng sử Trần Kính Chi mưu phản để Kính Chi bị bắt vào ngục, mấy hôm sau thì Kính Nghiệp tiến hành nổi dậy, xưng niên hiệu cũ là Tự Thánh, xưng Khương phục phủ Thượng tướng, Dương Châu đại đô đốc; sai Lạc Tân Vương viết hịch kể tội Thái hậu gửi đi khắp nơi. Kính Nghiệp lại trá xưng là Thái tử Lý Hiền vẫn còn sống và đang ở chỗ mình. Thái hậu sai Lý Hiếu Dật làm Tương Châu đại tổng quản, dẫn 300.000 quân cùng Lý Tri Sĩ, Mã Kính Thần làm phó, thảo phạt Kính Nghiệp. Khi bà hỏi Bùi Viêm về kế sách đối với quân phản loạn, Viêm nói rằng Hoàng đế đã lớn tuổi, chỉ cần Thái hậu giao trả quyền chính thì tất vô sự. Thái hậu tức giận, giam Viêm vào ngục, đưa Kiến Vị Đạo, Lý Cảnh Kham lên thay; sau đó khép Bùi Viêm vào tội chết; lại lưu đày những người nói hộ cho Viêm. Lý Kính Nghiệp đưa quân đánh sang Nhuận Châu. Thái hậu tước chức quan của ông ta, bắt trở về họ Từ. Lúc này quân của Lý Hiếu Dật không thu được thành quả nào, Hiếu Dật tỏ ra nao núng. Nhưng có tướng dưới quyền Ngụy Nguyên Trung khích lệ, Hiếu Dật mới quyết tâm hơn, cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Từ Kính Nghiệp. Sau đó Kính Nghiệp đại bại, phải bỏ trốn. Tướng Vương Na Tướng làm phản giết anh em Kính Nghiệp, Lạc Tân Vương rồi ra hàng, cuộc nổi dậy bị dẹp tan. Có người Hồ là Sách Nguyên Lễ đoán biết ý, nên dùng chuyện cáo mật mà được phong làm "Du Kích tướng quân" (游擊將軍). Nguyên Lễ tính tình tàn nhẫn, thích dùng ngục hình, thường thì một người bị tố cáo thì lôi ra cái mà hắn gọi là "đồng đảng" hơn 10 người, dùng hình rất nặng khiến ai ai cũng bất an. Lại có bọn ngục lại là Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng thừa cơ mượn gió bẻ măng; Hưng được phong Thu quan thượng thư còn Tuấn Thần làm tới Ngự sử trung thừa. Bọn này hè nhau mượn việc cáo mật mà vu oan hãm hại người khác, làm triều chính mấy phen điên đảo; lại còn chế ra nhiều cực hình tàn khốc để hành hạ phạm nhân: định bách mạch, đột địa hống, tử trư sầu, cầu phá gia, phụng hoàng sái sí, lư câu bạt quyệt, ngọc nữ đăng thê. Mỗi lần có đại xá, Tuấn Thần lại ra giết hết người phạm tội nặng rồi mới ban lệnh xá, thế mà Thái hậu vẫn cho là trung thành và càng tín nhiệm.
Dần dần, Võ Thái hậu đã lộ rõ có ý soán ngôi, nên tìm cách loại trừ một số tôn thất nhà Đường mang họ Lý, như Hàn vương Lý Nguyên Gia, Hoắc vương Lý Nguyên Quỹ, Lỗ vương Lý Linh Quỳ, Việt vương Lý Trinh, Giang Đô vương Lý Tự, Phạm Dương vương Lý Ái, Đông Hoàn công Lý Dung và Lang Tà vương Lý Xung - con Việt vương. Những người này trong hàng tông thất đều có tiếng tốt, nên Võ Thái hậu rất kiêng kị. Trong số này thì Hàn vương Lý Nguyên Gia là người đầu tiên cảm giác bất an, bèn lén lút viết thư thăm dò Việt vương Lý Trinh, bày tỏ muốn làm chính biến khôi phục quyền lực cho hoàng tộc họ Lý. Bản thân Lý Trinh cũng biết ý đó, tỏ ra bất an và muốn nổi dậy. Mùa thu năm Thùy Củng thứ 4 (688), tháng 8 (ÂL), Lang Tà vương Lý Xung triệu tập quân các nơi cùng đánh vào Thần Đô Lạc Dương, Thái hậu sai Khâu Thần Tích dẫn quân thảo phạt, ngay sau đó thì Việt vương Lý Trinh khởi binh từ Dự Châu, còn Lý Xung từ Bác Châu. Tuy nhiên các lộ chư hầu khác vẫn chưa kịp khởi binh, do đó lực lượng của ông bị đè bẹp nhanh chóng. Cuối cùng Lý Xung bị tên giữ thành Bác Châu giết chết, hơn 1000 quan lại cũng bị liên can và bị Khâu Thần Tích giết chết, Lý Trinh cũng bị đánh bại liên tục và phải tự tử trong thành. Thái hậu hạ chiếu đổi họ của cha con Việt vương thành họ "Hủy" (虺氏), rồi còn nhân đó bắt tội Hàn vương, Lỗ vương, Thường Lạc Công chúa, Hoàng công Lý Soạn, bắt họ tự sát rồi đổi tất cả sang họ Hủy hết thảy. Phò mã Tiết Thiệu cùng hai anh là Tiết Nghĩ, Tiết Tự cũng bị liên can, Nghĩ và Tự bị giết, Thiệu bị đánh 100 trượng rồi cũng chết trong ngục.
Truy phong họ Võ
Năm Quang Trạch nguyên niên (684), tháng 9, người trong họ Võ Thái hậu là Võ Thừa Tự dâng biểu xin truy phong cho tổ tiên họ Võ lên tước Vương, lập nên 7 ngôi miếu họ Võ được gọi là Võ thị Thất miếu (武氏七廟), có ý khuếch trương dòng dõi nhà họ Võ.
Thái hậu nghe thế mà bằng lòng, thế nhưng truy phong tước Vương là thuộc điều cấm kị của rất nhiều triều đại, trong đó có nhà Đường. Tể thần là Bùi Viêm lại dẫn câu chuyện Lã hậu thời nhà Hán khi trước ra can ngăn, nói rằng: "Thái hậu mẫu lâm thiên hạ, nên chí công vô tư mới phải. Ngài quên cái bại của họ Lã khi xưa chăng?!". Thái hậu không nghe, nói lại: "Lã hậu đó là cậy quyền phong cho người sống. Nay ta truy phong người chết, có hại gì?"; bèn truy phong tổ 6 đời là Võ Khắc Kỷ làm "Lỗ Tĩnh công" (魯靖公), vợ là phu nhân; tổ 5 đời là Võ Cư Thường làm Thái úy, thụy "Bắc Bình Cung Túc vương" (北平恭肅王); tằng tổ Võ Kiệm là Thái úy, thụy "Kim Thành Nghĩa Khang vương" (金城義康王); tổ phụ Võ Hoa là Thái uý, thụy "Thái Nguyên An Thành vương" (太原安成王). Còn thân phụ Võ Sĩ Hoạch làm Thái sư, thụy "Ngụy Định vương" (魏定王), còn tất cả các nữ quyến đều truy phong làm vương phi; cho người xây từ đường ngũ đại tại quê nhà Văn Thủy.
Năm Vĩnh Xương nguyên niên (689), mùa xuân, Võ Thái hậu tôn cha mình thành "Chu Trung Hiếu Thái hoàng" (周忠孝太皇), vợ là "Trung Hiếu Thái hậu" (忠孝太后), thiết mộ gọi là Chương Đức lăng (章德陵). Truy thêm các đời trước, Lỗ công là "Thái Nguyên Tĩnh vương" (太原靖王); Bắc Bình vương là "Triệu Cung Túc vương" (趙肅恭王), Kim Thành vương là "Ngụy Nghĩa Khang vương" (魏義康王); Thái Nguyên vương là "Chu An Thành vương" (周安成王).
Lập triều Võ Chu
Thánh Thần Hoàng đế
thumb|Chữ "Chiếu" được Võ hậu sáng tạo. Từ năm Thùy Củng thứ 4 (688), Võ Thái hậu bắt đầu xây Minh đường bằng cách hủy bỏ Càn Nguyên điện cũ và xây dựng trên nền điện ấy. Vào lúc này, quyền lực của Võ Thái hậu đã lớn, khiến nhiều kẻ xu nịnh bắt đầu tạo những thứ gọi là "điềm lành", hòng mua chuộc và lấy lòng bà. Người cháu trong họ là Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự đã cho làm giả bảo thạch, trên có khắc 8 chữ "Thánh mẫu lâm nhân, Vĩnh xương Đế nghiệp" (聖母臨人,永昌帝業), có ý đề cao việc bà đích thân quản lý chính sự thay Duệ Tông.
Đối với những thứ này, Võ Thái hậu không ngần ngại tỏ ra cực kỳ thích thú, đặt tên viên bảo thạch là Bảo đồ (寶圖), sau đó còn tự xưng tôn hiệu Thánh mẫu Thần hoàng (聖母神皇), đại xá thiên hạ, sau lại nghĩ ra tên khác, cho bảo thạch thành Thiên thụ Thánh đồ (天授聖圖). Cũng trong thời gian này là sự kiện nổi loạn của hai cha con Lang Tà vương. Sau khi đánh bại phe phái chống đối mấu chốt này, sự "thần thánh" của Võ Thái hậu ngày càng lớn và không còn ai đủ sức có thể ngăn chặn con đường tự lập của Võ Thái hậu nữa. Cùng năm ấy, Minh đường hoàn thành, ấy là Vạn Tượng Thần Cung (萬象神宮) nổi tiếng, cao 394 xích, gồm 3 tầng. Liền ngay đó, bà cho cải niên hiệu thành Vĩnh Xương, theo tên Thánh đồ của bà, nhưng được hết năm thì lại cho đổi thành Tái Sơ.
Năm Tái Sơ nguyên niên (690), tháng giêng, Võ Thái hậu lâm hạnh Minh đường, đại xá thiên hạ. Trong lần này, bà cho ban chữ "Chiếu" (曌) làm tên húy kị của mình. Chữ "Chiếu" được đề cập với hình Mặt trời (日), Mặt trăng (月) trên không (空), để tỏ quyền uy tối thượng. Chữ "Chiếu" này cùng 11 chữ khác về sau được gọi là Võ hậu tân tự.
Mùa hạ năm đó, sư Pháp Minh dâng bốn quyển "Đại Vân kinh" (大雲經) ca ngợi Thái hậu là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ của thiên hạ. Thái hậu sai in rồi phát ra khắp nơi, đề cao Phật giáo trên Đạo giáo. Cùng lúc, Võ Thừa Tự bàn với Chu Hưng tố cáo các Trạch vương Lý Thượng Kim và Hứa vương Lý Tố Tiết có mưu phản, Thái hậu sai bắt trị tội, thắt cổ giết Tố Tiết; Thượng Kim cũng phải tự tử, lúc này hoàng thất họ Lý đã không còn ai có thể đe dọa Võ hậu nữa. Lại nói từ khi Tiết Thiệu bị giết, Thái Bình Công chúa đi khắp nơi tìm kiếm nam sủng. Võ Thái hậu sợ mang tiếng, nên đem công chúa gả cho cháu họ của mình là Hữu vệ Trung lang tướng Võ Du Kỵ. Du Kỵ là cháu trong tộc của Thái hậu nhưng đã có chính thê từ trước, mà công chúa gả vào không thể làm thiếp, do đó Thái hậu lệnh cho người giết chính thê ấy. Trong các con thì Thái hậu ưng công chúa nhất, thường cho là giống mình, mọi chuyện chính sự đều cho công chúa tham gia. Theo thông lệ thì tước thân vương không có thực ấp quá 1.000 hộ, các công chúa không thể quá 350 hộ, nhưng riêng Thái Bình được Thái hậu ban hơn 3.000 hộ. Tông thất nhà Đường bị quản chế nghiêm ngặt, bốn người con của Thái tử Lý Hiền quá cố là Lý Quang Thuận, Lý Thủ Lễ, Lý Thủ Nghĩa, Trường Tính Huyện chúa và các con của Duệ Tông đều bị canh giữ trong nội cung, hơn 10 năm không ra khỏi cửa cung.
thumb|Chữ Quân (君) biểu thị [[Vua dưới thời Võ Chu.]]
Tháng 9 (ÂL) năm ấy, Thị ngự sử Phó Du Nghệ cùng hơn 900 đại thần đến Thần Đô, dâng thư xin Võ Thái hậu xưng làm Hoàng đế, đổi quốc hiệu thành Chu (周), sửa quốc tính thành họ Võ. Võ Thái hậu khước từ. Thấy vậy, đủ loại quan lại, tông thích, thậm chí là nhiều Tù trưởng các Di tộc đều lần lượt xin dâng biểu mời Võ Thái hậu đăng vị. Trước tình thế ấy, cả Đường Duệ Tông cũng đành phải xin bà cho đổi thành họ Võ, quan viên trong triều cũng tâu thỉnh, nói thấy có phượng hoàng bay vào Thượng Dương cung (上陽宮), tắc là điềm lành. Những điều này càng lúc càng thúc đẩy, khiến Võ Thái hậu quang minh chính đại soán vị.
Thế rồi vào ngày 9 tháng 9 (ÂL) năm ấy, Võ Thái hậu chính thức lên ngôi ở Tắc Thiên môn (則天門), đổi tên triều đại từ "Đường" thành "Chu", đổi niên hiệu làm Thiên Thụ (天授). Ngày 12 (ÂL) tháng ấy, quần thần tôn hiệu là Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), sử thường gọi sự kiện này là "Tắc Thiên cách mệnh" (則天革命) hoặc "Chu Đường cách mệnh" (周唐革命). Vừa lên ngôi, Võ hoàng cho giáng Duệ Tông làm "Hoàng tự" (皇嗣), Hoàng thái tử Lý Thành Khí giáng làm "Hoàng tôn" (皇孫), đều cho đổi làm họ Võ. Sau đó, Võ hoàng còn phong cho Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự là Ngụy vương; Thiên Quan Thượng thư Võ Tam Tư làm Lương vương, lại gia phong các cháu trong họ cộng 10 người làm quận vương, cô dì phong là Trưởng công chúa, con gái của Đường Cao Tổ Lý Uyên là Thiên Kim Công chúa, nhanh chóng lấy lòng Võ hoàng, tự nhận làm con, tự đổi thành họ Võ thị, do đó công chúa được phong làm Diên An Đại trưởng công chúa.
Võ hoàng chính thức cho lập miếu tổ tiên họ Võ ở Thần đô, tiến hành truy tặng:
- Chu Văn vương là "Thủy Tổ Văn Hoàng đế" (始祖文皇帝), Thái Tự là "Văn Định Hoàng hậu" (文定皇后);
- Con trai nhỏ của Chu Bình vương là Cơ Võ tôn làm "Duệ Tổ Khang Hoàng đế" (睿祖康皇帝), vợ là Khương thị làm "Khang Huệ Hoàng hậu" (康惠皇后);
- Thái Nguyên Tĩnh vương Võ Khắc Dĩ làm "Nghiêm Tổ Thành Hoàng đế" (嚴祖成皇帝); Triệu Cung Túc vương Võ Cư Thường là "Cung Tổ Chương Kính Hoàng đế" (肅祖章敬皇帝); Ngụy Nghĩa Khang vương Võ Kiệm là "Liệt Tổ Chiêu An Hoàng đế" (烈祖昭安皇帝); Chu An Thành vương Võ Hoa là "Hiển Tổ Văn Mục Hoàng đế" (顯祖文穆皇帝); Trung Hiếu Thái hoàng Võ Sĩ Hoạch cải tôn "Thái Tổ Hiếu Minh Cao Hoàng đế" (太祖孝明高皇帝). Tất cả các phi, vợ của các ông đều cải tôn là hoàng hậu. Cùng năm, Hiệt Điệt Lợi Thi Khả hãn A Sử Na Cốt Đốc Lộc của Đột Quyết qua đời, em trai là A Sử Na Mặc Xuyết lên kế vị. Sự kế vị của A Sử Na Mặc Xuyết được coi là sự soán ngôi ở nhà Chu. Cùng năm ấy, tháng 9, đại tướng Vương Hiếu Kiệt (王孝杰) và A Sử Na Trung (阿史那忠) xuất chinh Tây Bắc, đại phá được Thổ Phồn, thu phục 4 địa phương và cho đổi thành An Tây Tứ trấn (安西四镇), củng cố vị thế cho An Tây đô hộ phủ của nhà Chu tại đó. Cục diện phía Tây tạm yên.
Mùa xuân năm Trường Thọ thứ 3 (694), tháng giêng, người Thất Vi (thuộc nhóm người Mông Cổ) ở phía đông bắc nhà Chu nổi dậy chống lại Võ hoàng, tấn công biên giới phía bắc của nhà Chu. Võ hoàng phái Đại tướng quân Lý Đa Tộ (thủ lĩnh bộ lạc Phất Niết Mạt Hạt) dẫn quân Chu đi chống cự quân Thất Vi. Lý Đa Tộ nhanh chóng đánh đuổi được quân Thất Vi về đông bắc. Tháng 2 năm 694, quân Chu do Vương Hiếu Kiệt công phá liên minh hơn 300.000 người giữa Bột Phác Luận Tán Nhuận của Thổ Phồn và Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Đột Quyết, lại thắng lợi. Tháng 8 năm 694, Lương vương Võ Tam Tư lĩnh suất "Tứ di Tù trưởng" thỉnh lấy đồng thiết đúc Thiên trụ (天樞) đặt ngoài Đoan môn, để biểu thị công đức của Võ hoàng. Vì lý do này mà triều đình gom hết đồ vật làm bằng đồng trong nước, sau khi hoàn thành thì liền cho khắc tên của bách quan cùng vua của các chư hầu. Sau đó, chính tay Võ hoàng đích thân đề cái tên Đại Chu vạn quốc tụng đức Thiên trụ (大周萬國頌德天樞), ngụ ý Võ Chu triều là trung tâm của thiên hạ, thống lĩnh vạn quốc. Tuy nhiên cùng năm đó, liên quân Đột Quyết (do Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết chỉ huy) và Thổ Phồn (do Luận Khâm Lăng và Luận Tán Bà chỉ huy) đánh bại quân Chu, chiếm đóng An Tây đô hộ phủ của nhà Chu. Sau đó Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết dẫn quân Đột Quyết tấn công Linh châu (hiện nay là Ngân Xuyên, Ninh Hạ, Trung Quốc), và Võ hoàng ủy nhiệm cho nhân tình của bà là Tiết Hoài Nghĩa, với sự hỗ trợ của các tể tướng Lý Chiêu Đức và Tô Vị Đạo, để phòng thủ trước cuộc tấn công của A Sử Na Mặc Xuyết, nhưng trước khi quân đội nhà Chu này có thể xuất phát, A Sử Na Mặc Xuyết đã rút lui khỏi Linh châu, và do đó quân đội của Tiết Hoài Nghĩa chưa bao giờ xuất phát.
Năm Chứng Thánh nguyên niên (695), tháng giêng, tôn hiệu của bà được đổi thành Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝). Ngày 16 (ÂL) tháng ấy, sủng nam Tiết Hoài Nghĩa vì bị Võ hoàng thất sủng mà đốt Thiên đường cùng Minh đường. Tòa nhà được gọi là "Thiên đường" (天堂) là tòa phật đường được xây dựng ngay sau khi Võ hoàng làm xong Minh đường, vị trí đằng sau Minh đường để thờ tượng Phật, cao hơn trăm thước, sau khi Tiết Hoài Nghĩa châm lửa thì cả hai tòa đường đều cháy rụi trọn đêm. Thiệt hại quá nặng nề và điều kiện không cho phép, Võ hoàng chỉ có thể xây lại Minh đường. Võ hoàng lệnh cho Thái Bình công chúa giết chết Tiết Hoài Nghĩa. Cùng tháng ấy, Võ hoàng phái Vương Hiếu Kiệt đánh vào Đột Quyết, khiến vào tháng 10 cùng năm đó, Khả hãn của Đột Quyết là A Sử Na Mặc Xuyết phải hàng và quy phụ nhà Chu của Võ hoàng. Võ hoàng mừng rỡ và làm lễ phong thiện ở Tung Sơn, đại xá thiên hạ, đổi tôn xưng thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (天冊越古金輪聖神皇帝), cải niên hiệu mới làm Thiên Sách Vạn Tuế, sau lại đổi thành Vạn Tuế Đăng Phong. Võ hoàng phong cho A Sử Na Mặc Xuyết tước vị như Hiệt Điệt Lợi Thi Đại Thiền Vu (頡跌利施大單于), Lập Công Báo Quốc (立功報國), Tả Vệ Đại Tướng Quân (左衛大將軍) cũng như Quy Quốc Công (歸國公) và Thiên Thiện Khả hãn (迁善可汗, nghĩa là "Khả hãn có tấm lòng thiện"). Tướng cũ của Cao Câu Ly là Đại Trọng Tượng (大仲象 Dae Jung-sang) và con trai là Đại Tộ Vinh (大祚榮 Dae Jo-young) ở núi Đông Mưu (Dongmo, nay thuộc Mãn Châu, Trung Quốc) đã liên minh với thủ lĩnh Bạch Sơn Mạt Hạt là Khất Tứ Bỉ Vũ (걸사비우, 乞四比羽 bính âm: Gulsabiwu) và các thủ lĩnh của các bộ tộc vùng Hắc Long Giang hỗ trợ cho Lý Tận Trung và Tôn Vạn Vinh chống lại Đại Chu. Lý Tận Trung tự xưng là "Vô Thượng Khả hãn" (無上可汗), kiến lập quốc gia Đại Khiết Đan Quốc. Tàn quân Khiết Đan thua trận phải rút về Doanh Châu phía nam. A Sử Na Mặc Xuyết, A Sử Na Bặc Câu và A Sử Đức Nguyên Trân lại đánh chiếm Doanh Châu, tiếp tục tàn sát người Khiết Đan trong thành. Tàn quân Khiết Đan lại lui sang Chongzhou và Thành Châu phía đông bắc Doanh Châu. Quân nhà Chu của Võ hoàng cũng kéo đến Doanh Châu hội quân với Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết. Liên quân Chu - Đột Quyết tấn công thành Chongzhou và Thành Châu nhằm diệt tàn quân Khiết Đan ở đây nhưng người Khiết Đan quá dũng mãnh khiến liên quân chỉ còn cách cho quân vây thành Chongzhou và Thành Châu, chờ tàn quân Khiết Đan trong thành hết lương thực sẽ quy hàng. Quân đội nhà Chu bị tổn thất nặng nề. Một tướng của Vương Hiếu Kiệt là Trương Duyệt về Lạc Dương, báo cáo lại với Võ hoàng ở Lạc Dương rằng: "Vương Hiếu Kiệt rất dũng cảm và sẵn sàng chiến đấu đến chết. Ông ấy trung thành phục vụ cho quốc gia, chiến đấu trong lãnh thổ của kẻ thù và chiến đấu với kẻ địch có quân số nhiều hơn. Nhưng ông ấy không có sự hỗ trợ, và vì vậy ông ta đã bị đánh bại.". xây dựng kinh thành tại gần núi Đông Mưu, nên thành cũng được đặt tên là Đông Mưu (nay thuộc tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc). Chấn vương phái sứ giả sang Hãn quốc Hậu Đột Quyết, lập liên minh chống nhà Chu với Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết.
A Sử Na Mặc Xuyết đánh phá phía bắc nhà Chu, Đại Tộ Vinh đánh phá An Đông đô hộ phủ của nhà Chu
thumb|Bản đồ [[Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết khi giao tranh với nhà Chu của Võ Tắc Thiên từ năm 698 đến năm 703.]] Cùng năm 698, Thiên Thiện Khả hãn của Hãn quốc Hậu Đột Quyết là A Sử Na Mặc Xuyết đòi hòa thân với nhà Chu bằng việc yêu cầu nhà Chu gửi hoàng tử sang kết hôn với con gái của ông ta (một phần trong âm mưu nhập gia đình của ông ta với hoàng thân nhà Đường, sau đó họ sẽ thay thế nhà Chu của Võ hoàng và khôi phục quyền thống trị của nhà Đường đối với Trung Quốc dưới ảnh hưởng của ông ta). Khi Võ hoàng định cử một thành viên trong gia tộc của mình là cháu trai Võ Diên Tú (武延秀) để kết hôn với con gái của A Sử Na Mặc Xuyết, Trương Giản Chi đã phản đối và nói rằng:
:"Từ xưa cho đến nay, chưa có hoàng tử Trung thổ nào từng cưới một người phụ nữ man rợ làm vợ mình."
Sự phản đối này đã khiến Võ hoàng không hài lòng vì bà muốn hòa bình với người Đột Quyết. Kết quả là bà đã giáng chức Trương Giản Chi làm Thứ sử Hợp Châu (合州, miền bắc Trùng Khánh, Trung Quốc hiện đại). Sau đó Võ hoàng cho cháu mình là Võ Diên Tú thành hôn với công chúa Đột Quyết. Tuy nhiên A Sử Na Mặc Xuyết đã từ chối hoàng tử. A Sử Na Mặc Xuyết thực chất không có ý định củng cố hiệp ước hòa bình với nhà Chu bằng một cuộc hôn nhân; thay vào đó, khi Võ Diên Tú đến Hãn quốc Hậu Đột Quyết, ông ta đã cho bắt giữ Võ Diên Tú, sau đó gây hấn với nhà Chu, dẫn quân vượt Vạn Lý Trường Thành, tiến đánh đến Triệu Châu (thuộc khu vực Thạch Gia Trang, Hà Bắc hiện nay) của nhà Chu. Tướng nhà Chu là Mộ Dung Huyền Kiểu (慕容玄皦) mang 5000 binh lính Chu quy hàng A Sử Na Mặc Xuyết. Tháng 8 cùng năm, A Sử Na Mặc Xuyết tấn công Định Châu nhà Chu, chiếm được Định Châu và giết chết tướng nhà Chu là Tôn Ngạn Cao (孙彦高), đồng thời thiêu rụi thành phố Định Châu. Võ hoàng tức giận đến mức ban bố rằng nếu ai giết được Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sẽ được phong làm Hoàng tử nhà Chu. Sau đó, Võ hoàng đổi tên A Sử Na Mặc Xuyết thành A Sử Na "Trảm Xuyết" ("斩啜", nghĩa là A Sử Na "đầu bị chặt") như một cách chơi chữ của cái tên Mặc Xuyết của ông. A Sử Na Mặc Xuyết nghe tin thì nổi giận, vào tháng 9 cùng năm, Triệu Châu cũng bị A Sử Na Mặc Xuyết tấn công. Phó tướng nhà Chu giữ thành Triệu Châu là Đường Ba Nhược (唐波若) mở cổng thành Triệu Châu và chủ tướng nhà Chu giữ thành Triệu Châu là Cao Duệ (高睿) ngay lập tức bị quân Đột Quyết xử tử.
Võ hoàng lệnh cho Thái tử Võ Hiển làm nguyên soái, Địch Nhân Kiệt làm phó nguyên soái để trừng phạt người Đột Quyết và ổn định tình hình tại đó. Các tù trưởng ở phía bắc thấy Võ Hiển đến thì đều lần lượt hưởng ứng, lực lượng của Võ Hiển đông đến 5 vạn quân. Tuy nhiên, người Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết đã rút lui trước khi quân đội nhà Chu tới nơi. Vào tháng 10 cùng năm, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết để Nam Diện Khả hãn (南面可汗) là Diêm Trí Vi (阎知微) trở về nhà Chu. Diêm Trí Vĩ lập tức bị bắt và bị Võ hoàng xử tử vì tội phản quốc.
Năm Thánh Lịch thứ 2 (699), quốc chủ của Thổ Phồn giết chết Luận Khâm Lăng, con của Luận Khâm Lăng là Luận Cung Nhân cùng Luận Tán Bà đầu hàng Chu, đồng thời trao trả An Tây đô hộ phủ lại cho Võ hoàng. Kể từ lúc đó, Thổ Phồn lâm vào tình cảnh rối ren, xung đột và trong một thời gian không còn gây hấn với Trung Hoa như trước nữa. Chấn vương Đại Tộ Vinh dẫn quân Đại Chấn đánh chiếm nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ là Tân Thành (này là Phú Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc). An Đông đô hộ Bùi Huyền Khê (裴玄珪) phải bỏ Tân Thành chạy trốn. Võ hoàng đổi nhiệm sở An Đông đô hộ phủ từ Tân Thành đã rơi vào tay Đại Tộ Vinh sang khu vực phía tây của Liêu Đông.
Cao Đức Vũ nổi dậy chiếm cứ Liêu Đông lập ra Tiểu Cao Câu Ly năm 699
thumb|Bản đồ [[Tiểu Cao Câu Ly (màu xanh nhạt) của Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) và nước Đại Chấn (màu xanh đậm) của Chấn vương Đại Tộ Vinh khi cùng nhau chống lại nhà Chu của Võ Tắc Thiên từ năm 699 đến năm 705.]] Cũng trong năm 699 này, nhà Chu của Võ hoàng cử hoàng tử Cao Câu Ly trước đây là Cao Đức Vũ (Go Deokmu), con trai thứ ba của vua Cao Câu Ly cuối cùng là Bảo Tạng Vương (Bojangwang), đến bán đảo Liêu Đông và đặt cho ông tước hiệu "Triều Tiên vương" (Joseonwang) và chức danh đô úy một quận của An Đông đô hộ phủ. Giống như cha mình những năm 677 - 681 từng lập hội Đông Minh Thiên (東明天氣盖世) chống lại nhà Đường, Cao Đức Vũ lên kế hoạch nổi loạn chống lại nhà Chu và hồi sinh Cao