✨Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu

Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu

Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi Thọ Minh hoàng thái hậu (壽明皇太后) hay Ninh Tông Dương hoàng hậu (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng.

Bà có vai trò quan trọng trong việc giúp Tống Lý Tông Triệu Quân kế vị, do Lý Tông vốn dĩ không phải là nhân tuyển cho vị trí Thái tử của Tống Ninh Tông. Vì vậy, với thân phận Hoàng thái hậu, bà trở thành nhiếp chính của Tống Lý Tông Triệu Quân từ năm 1224 tới năm 1232, tổng 8 năm.

Cuộc sống ban đầu

Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu Dương thị

Cung Thánh Thái hậu Dương thị tự xưng là người Cối Kê (Triệu Hưng ngày nay). Không rõ thân thế trước lúc vào cung của bà thế nào, vốn Dương thị không phải họ Dương, nhưng vì tham vọng, bà đã cấu kết với một tên Thái giám họ Dương trong cung, giả làm em gái của hắn và tự nhận mình mang họ Dương. Có thuyết cho rằng, bà là con gái của một nữ nhạc công trong triều lúc bấy giờ, số khác lại cho bà chỉ là con nuôi. Về sau này, Dương thị làm cung nữ hầu hạ cho Ngô Thái hậu. Khi ấy, Dương thị được Gia vương Triệu Khoách chú ý đến.

Vào năm Khánh Nguyên thứ nhất (1195), Ninh Tông sau khi lên ngôi, nhớ đến Dương thị ngày nào, đã ra chỉ thăng bà làm Bình Nhạc quận phu nhân (平樂郡夫人).

Năm thứ 3 (1198), tấn phong Tiệp dư (婕妤). Năm Khánh Nguyên thứ 5 (1199), tiến phong Uyển nghi (婉儀), năm sau lại tấn phong làm Quý phi, đứng đầu hoàng phi trong cung. Cũng năm đó, Cung Thục hoàng hậu Hàn thị, chính hậu của Ninh Tông qua đời, hậu cung không ai quản lý.

Lên ngôi Hoàng hậu

Lúc này trong cung, Dương Quý phi và Tào Mỹ nhân (曹美人) đang được đắc sủng. Tào mĩ nhân là người con gái hiền lành lại lễ độ, còn Dương Quý phi thông tuệ nhạy bén. Ý Ninh Tông là muốn lập Dương Quý phi. Nhưng khi đó đại quyền trong triều bị Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự là Hàn Thác Trụ thao túng, là bác của Hàn hoàng hậu. Thác Trụ cho rằng Dương Quý phi xảo quyệt, thủ đoạn, khi làm Hoàng hậu sẽ nắm quyền nên tiến phong Tào mỹ nhân làm Hoàng hậu. Ninh Tông do dự bèn nghĩ ra cách, cho cả hai bà làm một bữa ăn tối, ông sẽ dựa vào bữa ăn mà chọn ra ngôi Hậu.

Lúc Ninh Tông đang ở chỗ của Tào mĩ nhân thì Dương Quý phi đến mới. Tào mĩ nhân không biết đó là kế, bèn theo đến cung Dương phi. Dương phi chuốc rượu cho nhà vua đến say quắc cần câu, rồi đưa tờ chiếu phong hậu đến buộc nhà vua phải kí. Năm Gia Thái thứ 2 (1202), Dương thị được chính thức sắc phong làm Hoàng hậu. Lúc đó em gái bà là Dương mĩ nhân cũng được Ninh Tông hết mực sủng ái, người đương thời gọi là Dương muội, vì nàng ta là em gái của Dương hoàng hậu. Bên ngoài anh trai bà là Dương Thứ Sơn ra sức hỗ trợ, thế lực ngày càng lớn mạnh.

Sự kiện cầu Lục Bộ

Dương hậu vì chuyện sắc phong nên rất oán giận Hàn Thác Trụ, bà đã nhiều lần xàm tấu ông với Tống Ninh Tông. Sau này Thác Trụ phát động bắc phạt Khai Hi nhưng thất bại thê thảm, người Kim muốn có thủ cấp của Thác Trụ làm lễ vật nghị hòa, Ninh Tông trù trừ chưa dám quyết định, vì e ngại thế lực của Thác Trụ. Hoàng hậu vốn oán Thác Trụ, nên sai nghĩa tử là Vinh vương Triệu Nghiễm đàn hặc Thác Trụ nhưng Ninh Tông không nghe. Hoàng hậu nhân đó xin với Ninh Tông cho anh trai mình là Dương Thứ Sơn điều tra, Ninh Tông bằng lòng. Thứ Sơn bàn với Sử Di Viễn là người cũng đang muốn lật Hàn Thác Trụ để mà thay thế, rồi lệnh cho Tiền Tượng Tổ về kinh. Tượng Tổ ngày trước vì can ngán mít lòng Thác Trụ mà bị đuổi, nên có ý muốn báo thù. Bọn họ bàn với nhau việc xử lí Thác Trụ. Di Viễn đến bẩm với Dương hậu, cầm hổ phù điều động cấm quân, lệnh Tiền Tượng Tổ cầm ngự chỉ triệu Chủ quản cung điện Hà Chấn dẫn 300 quân sĩ phục ở cầu Lục Bộ.

Hàn Thác Trụ không có nghi ngờ gì, vẫn nhận mật chỉ mà vào cung. Đến cầu Lục Bộ thì gặp Hạ Chấn chực sẵn. Chấn sai Trịnh Phát, Vương Bân bắt Thác Trụ quỳ xuống nghe chỉ. Hạ Chấn đọc chưa hết thì Hạ Đình đã dùng gậy sắt đánh chết Thác Trụ. Khi đó Ninh Tông ở trong cung, biết có biến xảy ra, muốn đi cứu thái sư, hoàng hậu vội ra ngăn cản, khóc mà nói :Nếu như Bệ hạ muốn đón thái sư thì xin cho nô tì chết trước đã.

Ninh Tông vì những giọt nước mắt của Hậu mà rút lệnh. Sau khi nộp thủ cấp Thác Trụ cho người Kim, Ninh Tông lập Vinh vương Nghiễm làm Hoàng thái tử, đổi tên là Tuân, bổ nhiệm Tiền Tượng Tổ, Sử Di Viễn làm Tả, Hữu thừa tướng. Nhưng Tiền Tượng Tổ nắm quyền không lâu thì bị bãi tướng, từ đó Sử Di Viễn xưng bá trong triều. Di Viễn vốn cùng với Dương hậu có quan hệ thân thiết, người đương thời nghi ngờ giữa họ có quan hệ mờ ám, nhưng việc này không được chánh sử ghi lại.

Thuỳ liêm thính chính

Mùa thu năm 1220, con nuôi của Dương hậu là Cảnh Hiến thái tử Triệu Tuân qua đời, Ninh Tông không có người kế vị. Giữa năm 1221, con nuôi của Nghi vương Bính (cháu nội vua Hiếu Tông) là Quý Hòa được phong làm Hoàng tử, ban hiệu Tế quốc công. Bấy giờ Sử Di Viễn bên ngoài phe cánh đầy triều, bên trong có Dương hậu chống lưng, tha hồ nắm quyền triều chính, ngang ngược lộng hành, muốn làm gì thì làm, muối giết ai thì giết. Hoàng tử Hoằng thất bất bình, mới trị tội Di Viễn. Di Viễn biết được, bèn nảy sinh ý phế lập.

Năm Gia Định thứ 17 (1224), Ninh Tông bạo bệnh. Sử Di Viễn gọi triệu tông thất Quý Thành vào cung, giả mạo chiếu chỉ lập Quý Thành làm hoàng tử, đổi tên là Quân, phong Vũ Thái quân tiết độ sứ, tước Thành quốc công. Ngày 18 tháng 8 cùng năm Ninh Tông giá băng, Sử Di Viễn sai hai người cháu của Dương hậu là Dương Cốc, Dương Thạch vào cung báo việc phế lập. Dương hậu từ chối, bảo rằng :Tiên đế đã quyết lập Hoàng tử Hoằng, sao có thể dễ dàng thay đổi như vậy.

Khuyên đến bảy tám lần, Hậu vẫn không nghe. Cốc, Thạch phủ phục dưới đất mà nói :Trong ngoài hiện nay đều theo Thành Quốc, không lập thì có biến, e là không bảo toàn được Dương thị.

Dương hậu rốt cuộc phải nhận lời, cho triệu hoàng tử Quân vào cung. Dương hậu đổi giọng mà nói :Hôm nay ngươi chính là con của ta rồi.

Thái tử Quân kế vị, tức Tống Lý Tông, tôn Dương hậu làm Hoàng thái hậu, buông rèm nghe chính. Khi Lý Tông lập hậu, có hai người được chọn, trong đó Giả thị xinh đẹp thông tuệ, được Lý Tông sủng ái, còn Tạ thị mắt có màng, da ngăm đen, từ sau khi phát bệnh lên đậu thì bỗng nhiên trở nên xinh đẹp khác thường. Lý Tông có ý muốn lập Giả thị, nhưng vì Dương hậu ngày xưa chịu ơn của Tạ Thâm Phủ, nên ra sức thuyết phục, khiến Lý Tông phải lập Tạ thị làm Hoàng hậu, cho Giả thị làm Quý phi.

Năm Bảo Khánh thứ 2 (1226), Lý Tông tôn bà làm Thọ Minh Hoàng thái hậu (壽明皇太后). Năm Thiệu Định nguyên niên (1228), gia thêm tôn hiệu là Thọ Minh Từ Duệ Hoàng thái hậu (寿明慈睿皇太后). Năm thứ 4 (1231), lại tấn tôn Thọ Minh Nhân Phúc Từ Duệ Hoàng thái hậu (寿明仁福慈睿皇太后).

Năm Thiệu Định thứ 5 (1232), Dương Thái hậu sau khi nhiếp chính được 8 năm thì qua đời tại Từ Minh điện (慈明殿). Thụy hiệu là Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu (恭圣仁烈皇后).

Hậu duệ

Triệu Tăng (趙增; 18 tháng 12, 1200 - 7 tháng 1, 1201), truy phong Dĩnh vương (郢王)

Triệu Quynh (趙埛; 1202), truy phong Hoa vương (华王)

Nghĩa tử

Cảnh Hiến thái tử Triệu Tuân (? - 1220).

Tế quốc công Triệu Hoằng (? - 1225).

Tống Lý Tông Triệu Quân (1203 - 1264)

Tất cả các hoàng tử của Tống Ninh Tông đều chết khi chưa đầy 1 tháng tuổi, vì vậy ông nhận nuôi Triệu Dữ Cử, cháu 10 đời của Tống Thái Tổ, trực hệ của Yến Ý vương Triệu Đức Chiêu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Liệt Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:烈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đông Hán Quang Vũ Đế đệ nhị nhiệm
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Thánh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách ### Việt Nam #Tiền Lê
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Thánh Liệt Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖烈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tống Anh Tông Thánh Liệt hoàng hậu
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Nhân Liệt vương hậu** (chữ Hán: 仁烈王后; Hangul: 인열왕후; 16 tháng 8, 1594 - 16 tháng 1 năm 1636), là vương hậu đầu tiên của Triều Tiên Nhân Tổ, sinh mẫu của Chiêu Hiến Thế
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Thái Vũ Hách Liên Hoàng hậu** (chữ Hán: 太武赫連皇后; ? - 453) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Sinh thời bà
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Đường cung mỹ nhân thiên hạ** (tiếng Hoa: 唐宫美人天下, bính âm: **_Tang Gong Mei Ren Tian Xia_**; tiếng Anh: **_Beauty World_**), là một bộ phim truyền hình cổ trang, dã sử và tình cảm Trung
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 吳皇后; ? - 245), là người vợ thứ ba nhưng lại là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị và là Hoàng hậu đầu tiên của
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Uyên Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝淵景皇后; 1427 - 15 tháng 1, 1506), nhưng được Minh sử ghi thành **Cảnh Đế Uông Phế hậu** (景帝汪廢后), là Hoàng hậu đầu tiên Minh Đại Tông Chu
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Trang Hiến Vương Thái hậu** (chữ Hán: 莊憲王太后, 763 – 5 tháng 4, 816), cũng gọi **Trang Hiến hoàng hậu** (莊憲皇后), là vợ thứ của Đường Thuận Tông Lý Tụng và mẹ đẻ của Đường
**Ất Phất hoàng hậu** (chữ Hán: 乙弗皇后) (510–540), thụy hiệu: **Văn hoàng hậu** (文皇后) là hoàng hậu thứ nhất của Tây Ngụy Văn Đế (西魏文帝) Nguyên Bảo Cự (元寶炬) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Hoàng hậu Matilda, Matilda của Anh** (tiếng Anh: _Empress Matilda/Matilda of England_, tiếng Latinh: _Mathildis Imperatrix_; tiếng Tây Ban Nha: _Emperatriz Matilde/Matilde de Inglaterra_; 7 tháng 2, 1102 - 10 tháng 9, 1167), còn được
**Ngô hoàng hậu** () có thể là: * Ngô hoàng hậu, hoàng hậu của Lưu Bị. * Chương Kính hoàng hậu, là cung nhân họ Ngô của Đường Túc Tông, sinh Đường Đại Tông, được
**Cao Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:高皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu, hoặc chỉ các vị hoàng hậu họ Cao trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông.