Hiếu Cung Chương Hoàng hậu (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi Thượng Thánh Hoàng thái hậu (上聖皇太后), Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu (聖烈慈壽皇太后) hoặc Tôn quý phi (孫貴妃), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ và là sinh mẫu của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn.
Tiểu sử
Hiếu Cung Chương hoàng hậu họ Tôn (孫氏), sinh ngày 6 tháng 2 (âm lịch) vào năm đầu Kiến Văn, là người Trâu Bình, Sơn Đông. Cha bà là Vĩnh Thành huyện chủ bộ Tôn Trung (孙忠), được tặng tước Hội Xương bá (會昌伯), rồi Thái bảo, sau đó cải tước thành An Quốc công (安國公). Tôn thị từ nhỏ được miêu tả là dung mạo mĩ lệ, thông hiểu lễ giáo. Bành Thành bá phu nhân, mẹ của Thái tử phi Trương thị (sau là Trương hoàng hậu của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí) là người quê Vĩnh Thành nơi Tôn Trung làm việc, thường xuyên ra vào cung nên tiến cử Tôn thị cho cháu ngoại là Hoàng thái tôn Chu Chiêm Cơ. Minh Thành Tổ Chu Đệ cho phép Thái tử phi nuôi dưỡng Tôn thị trong cung, từ đó Tôn thị kết thân với Chu Chiêm Cơ và sớm trở thành tri kỷ.
Năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417), Thành Tổ chủ hôn cho Chu Chiêm Cơ, quyết định lập Hồ Thiện Tường làm chính thất Thái tôn phi. Tôn thị chỉ nhận địa vị Thái tôn tần. Không lâu sau đó, Thái tôn tần sinh hạ Thường Đức công chúa.
Phong Phi lập Hậu
Năm đầu Tuyên Đức (1425), cha của Chu Chiêm Cơ là Minh Nhân Tông Chu Cao Sí băng hà. Chu Chiêm Cơ bấy giờ là Thái tử kế thừa ngôi vị, tức Minh Tuyên Tông. Hồ Thiện Tường trở thành Hoàng hậu, còn Tôn thị nhận sách phong Quý phi, địa vị cao nhất hậu cung chỉ sau Hồ hoàng hậu. Theo lệ sách phong hậu cung, Hoàng hậu là người duy nhất được nhận [Kim bảo; 金宝], nhưng vì Minh Tuyên Tông có tình cảm sâu nặng với Tôn quý phi vượt xa Hồ hoàng hậu nên đặc biệt cấp cho bà vật này, từ đó tạo tiền lệ cho Quý phi đắc sủng hậu cung.
Năm Tuyên Đức thứ 2 (1427), Tôn quý phi hạ sinh Hoàng tử Chu Kì Trấn, Tuyên Tông rất vui mừng, thêm phần sủng ái Tôn thị. Theo Minh sử ghi lại, Chu Kì Trấn là do cung nữ Kỷ thị được lâm hạnh mà sinh ra, Tôn quý phi giả mang thai để tranh sủng, rồi lấy con Kỷ thị nhận làm con mình. Hiện tại vẫn chưa khảo chứng được độ chính xác của câu chuyện vì Minh sử tương đối thích ghi lời đồn, như trường hợp của Hoàng quý phi Vạn Trinh Nhi. Cũng có thể câu chuyện được thêu dệt từ sự tích "Ly miêu hoán Thái tử" thời nhà Tống.
Hồ hoàng hậu chỉ sinh Công chúa mà không có con trai nên bị Tuyên Tông lạnh nhạt. Sau đó, Tuyên Tông ép buộc Hồ hoàng hậu nhường lại Hậu vị cho Tôn quý phi. Tuyên Tông triệu tập triều thần nghị sự, nói: ["Trẫm đã 30 tuổi mà chưa có đích, cũng may Tôn quý phi sinh hạ Hoàng trưởng tử Chu Kỳ Trấn, mẫu từ tử quý, lại phần an ủi. Vậy Hoàng hậu nên xử trí thế nào?"]. Tuyên Tông tiếp tục liệt kê nhiều điểm xấu của Hoàng hậu. Tôn quý phi mừng thầm nhưng vẫn ra vẻ từ chối: ["Hậu lành bệnh thì ắt sẽ sinh Hoàng đích tử. Con của tiện thiếp nào có thể sánh với Đích tử?"]. Sử gia Thái Đông Phiên nhận định: ["Tôn quý phi thân thể quyến rũ, tính tình giảo hoạt... Mọi cách lấy lòng thượng ý, Tuyên Tông hoàng đế cứ thế bị thị đùa bỡn trong tay"].
Năm Tuyên Đức thứ 3 (1428), mùa xuân, Tuyên Tông ra chỉ phế truất Hồ hoàng hậu. Ngày 1 tháng 3 (âm lịch) cùng năm, Tuyên Tông lập Tôn quý phi làm Kế hậu, Hoàng tử Chu Kỳ Trấn được phong Hoàng thái tử. Trước hoàn cảnh con dâu đáng thương, tính tình khiêm nhường lại bị phế, mẹ Tuyên Tông là Trương thái hậu thường xuyên triệu Hồ thị vào Thanh Ninh cung. Khi có yến tiệc, Hồ thị cũng được Thái hậu sắp xếp ngồi ở vị trí cao hơn Tôn hoàng hậu, vì vậy Tôn hậu luôn cảm thấy bị bẽ mặt.
Hoàng thái hậu
Năm Tuyên Đức thứ 10 (1435), Minh Tuyên Tông băng hà, Thái tử Chu Kì Trấn kế vị, tức Minh Anh Tông. Trương thái hậu được tôn làm Thái hoàng thái hậu, còn Tôn hậu được tôn làm Hoàng thái hậu. Lúc này, Thái hoàng thái hậu chủ trì việc giáo dục Anh Tông, hành trạng của Tôn thái hậu không được ghi lại nhiều. Ngày 18 tháng 8 (âm lịch) năm Chính Thống thứ 14 (1449), Minh Anh Tông thân chinh Ngõa Lạt, Tôn thái hậu lấy quyền Hoàng thái hậu, mệnh Thành vương Chu Kỳ Ngọc giám quốc. Khi Anh Tông bị bắt trong Sự biến Thổ Mộc bảo, chấn động triều đình, Tôn thái hậu cùng Tiền hoàng hậu của Anh Tông đích thân dùng châu báu để chuộc Anh Tông về.
Tháng 9 cùng năm, do không thể bỏ trống ngôi vua, triều thần đã khuyên Tôn thái hậu chủ trì, lập Thành vương Chu Kỳ Ngọc làm Hoàng đế, tức Minh Đại Tông, nhưng vẫn để con trai của Minh Anh Tông là Chu Kiến Thâm làm Hoàng thái tử để đảm bảo ổn định dòng dõi. Ngày 4 tháng 12, Tôn thái hậu được tôn hiệu Thượng Thánh Hoàng thái hậu (上聖皇太后), còn sinh mẫu của Đại Tông là Ngô thị được tôn Hoàng thái hậu mà không có tôn hiệu để phân biệt đích thứ. Đây là lần đầu tiên lịch sử nhà Minh tồn tại hai vị Hoàng thái hậu. Minh Anh Tông trở về, được tôn Thái thượng hoàng nhưng bị giam ở Nam Cung, Tôn thái hậu nhiều lần thăm hỏi. Khi này Đại Tông cảm thấy Hoàng vị bị uy hiếp nên phế truất Chu Kiến Thâm, lập con mình là Chu Kiến Tế làm Hoàng thái tử thay thế.
Năm Cảnh Thái thứ 8 (1457), Minh Anh Tông phục vị, phế truất Minh Đại Tông. Tôn thái hậu được cải tôn hiệu thành Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu (聖烈慈壽皇太后), từ đó thành lệ dâng tôn hiệu cho Hoàng thái hậu trong Hậu cung nhà Minh.
Năm Thiên Thuận thứ 6 (1462), ngày 4 tháng 9 (âm lịch), Tôn thái hậu qua đời. Thụy hiệu của bà là Hiếu Cung Ý Hiến Từ Nhân Trang Liệt Tề Thiên Phối Thánh Chương hoàng hậu (孝恭懿憲慈仁庄烈齊天配聖章皇后), hợp táng cùng Minh Tuyên Tông ở Cảnh lăng.
Phim ảnh
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝章皇后, 952 - 995), còn gọi **Khai Bảo Hoàng hậu** (開寶皇后), là Hoàng hậu thứ 2 tại vị và là Chính thất thứ 3 của Tống Thái Tổ Triệu
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Mẫn Nhượng Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝愍讓皇后, 1378 - 1402), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn. ## Tiểu sử Hiếu Mẫn Nhượng Hoàng hậu có họ Mã (馬氏),
**Chương Hoàng Hậu** (chữ Hán: 章皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Đông Tấn Mục Đế Chương hoàng hậu
**Thánh Chương Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖章皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Tuyên Tông đệ nhị nhiệm Thánh
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
là Hoàng hậu thứ 124 trong lịch sử Nhật Bản, chính thất của Chiêu Hòa Thiên hoàng, tại vị Hoàng hậu từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989, thân
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Hiếu Mục Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝睦王皇后; ? – 21), là người vợ và cũng là Hoàng hậu đầu tiên của Vương Mãng, người lập ra triều đại nhà Tân. ## Tiểu sử Hiếu
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Minh Đức Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 明德李皇后; 960 - 1004), là vợ thứ 3, đồng thời là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa. ## Tiểu sử Minh
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái