Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà nổi tiếng trong lịch sử nhà Minh bởi tính cách hiền huệ và công lao to lớn trong sự nghiệp của Minh Thành Tổ.
Thân thế
Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu có họ Từ (徐氏), nguyên quán ở Hào Châu (濠州; nay là khu vực huyện Phượng Dương, thuộc thỉnh An Huy), sinh vào năm Chí Chính thứ 22 (1362) thời Nguyên Huệ Tông. Tên thật của bà không được ghi lại, nhưng phim ảnh và dã sử thường sử dụng những cái tên như Từ Nghi Hoa (徐儀華), Từ Diệu Vân (徐妙雲) cùng Từ Cẩm Hi (徐锦曦).
Xuất thân của Từ thị thuộc hàng cao nhất nhì trong các Hoàng hậu nhà Minh. Theo thân thế được ghi lại, đặc biệt là từ Yểm Sơn đường biệt tập (弇山堂别集), bà là con gái nhưng đồng thời là con đầu lòng của Trung Sơn vương Từ Đạt, Khai quốc công thần trứ danh đồng thời còn là một trong 18 anh em kết nghĩa của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi còn hàn vi. Mẹ bà là Tạ thị, con gái thứ của Tạ Tái Hưng (謝再興). Một điều đặc biệt là Tạ thị có một người chị, gả cho Chu Văn Chính (朱文正) - con trai của Nam Xương vương Chu Hưng Long, chính là người anh trai của Minh Thái Tổ. Vì lý do này, Từ Đạt và Chu Văn Chính là anh em rể cột chèo, do vậy Từ thị là biểu muội của con trai của Văn Chính, tức Chu Thủ Khiêm (朱守谦; sinh năm 1361). Trong gia tộc, Thủ Khiêm lại là cháu trai của Yên vương Chu Đệ - con trai thứ 4 của Minh Thái Tổ. Từ quan hệ này, trước cả khi chính thức được gả cho Chu Đệ, Từ thị đã nên sớm gọi chồng mình là [Tứ hoàng thúc; 四皇叔].
Do là con cả, Từ thị còn có bốn người em trai là Từ Huy Tổ (徐輝祖), Từ Thiêm Phúc (徐添福), Từ Tăng Thọ (徐增壽) và Từ Ưng Tự (徐膺緒), trong đó chỉ có Huy Tổ cùng Tăng Thọ là em trai cùng mẹ, còn Thiêm Phúc là do thị thiếp không rõ tên sinh ra, lại chết sớm, còn Ưng Tự là do kế thất Tôn thị sinh ra. Bà còn có 3 người em gái, trong đó cô em thứ nhì và thứ ba đều lấy các người con trai khác của Minh Thái Tổ là Đại Giản vương Chu Quế (朱桂) và An Huệ vương Chu Doanh (朱楹), còn một người em gái út hoàn toàn không rõ tên cũng như hành trạng. Tương truyền người em gái út của bà là Từ Diệu Cẩm (徐妙锦), tuy tài hoa nhưng không xuất giá.
Theo Minh sử ghi lại, Từ thị từ nhỏ có tiếng giỏi thi thư, hiệu [Nữ chư sinh; 女諸生]. Chu Nguyên Chương nghe biết Từ thị hiền thục, liền đem Từ Đạt đến hỏi: ["Trẫm cùng ngươi là bạn thuở hàn vi, từ xưa đến nay quân thần hợp lòng, thường sẽ thành quan hệ thông gia. Ngươi có con gái tốt như vậy, Trẫm muốn ban hôn cùng con trai của trẫm là Chu Đệ"]. Từ Đạt nghe xong thì dập đầu bái tạ, do đó Từ thị đính hôn với Chu Đệ.
Yên Vương phi
Năm Hồng Vũ thứ 9 (1377), Từ thị chính thức được gả cho Yên vương Chu Đệ. Lúc đó bà mới 15 tuổi, còn Chu Đệ cũng mới 17 tuổi. Bà có tư sắc xinh đẹp, ôn nhu hòa hiếu, đối với Hiếu Từ Cao Hoàng hậu rất đúng lễ nghi nên được bà yêu quý.
Năm Hồng Vũ thứ 13 (1381), Từ thị cùng Chu Đệ đến phiên ấp Bắc Bình, là đất phong của Yên vương. Trước đó, Mã Hoàng hậu băng thệ, Từ thị một mực giữ hiếu thủ tang 3 năm. Tuy trong di ngôn của Mã Hoàng hậu không cần quá mức thanh đạm, nhưng Từ thị vẫn theo quy củ, ăn mặc đều đơn sơ, không hề quá phận. Năm thứ 32 (1399), Minh Thái Tổ băng hà, cháu đích tôn là Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, kế vị tức Minh Huệ Đế. Yên vương Chu Đệ từ lâu có ý muốn cướp ngôi, bèn tập hợp gây dựng thanh thế hiển hách, tự cướp ngôi để xưng Hoàng đế. Ý tưởng này của Chu Đệ bị em trai của Yên Vương phi Từ thị là Từ Huy Tổ phản đối gay gắt.
Khi Chu Đệ phát động Tĩnh Nan chi biến, triều đình đã phái Lý Cảnh Long vây đánh Bắc Bình đúng lúc Chu Đệ đang đến xin cứu viện ở Ninh Hiến vương Chu Quyền. Chính lúc nguy cấp, tuy Thế tử Chu Cao Sí nhậm mệnh thủ thành, nhưng binh giáp bố trí ra sao đều do Từ thị chủ trương. Khi tướng Cảnh Long kịch liệt công thành, binh mệt lương thiếu, Từ thị đã khích lệ thê tử của tướng sĩ cùng mình mặc giáp, ra sức chống đỡ. Vì thế Bắc Bình được bảo toàn.
Hoàng hậu
Năm Kiến Văn thứ 4 (1402), tháng 7 ÂL, Yên vương Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ. Cùng năm ấy, vào tháng 11 ÂL, Yên vương phi được sách lập làm Hoàng hậu.
Từ Hoàng hậu là người có học vấn, lễ độ, bà tương trợ rất nhiều cho Chu Đệ trong việc yên ổn nhân tâm, bà nói: ["Mỗi năm nam bắc chinh chiến không ngừng, binh dân đều đã mỏi mệt bất kham, hiện tại nên vỗ về cho họ nghỉ ngơi"]. Sau đó lại tiếp: ["Hiền tài bây giờ đều là do Cao Hoàng đế thu nhận, bệ hạ đừng nên nghi người mới thân người cũ. Hơn nữa, Đế Nghiêu thi hành nhân trị, là từ thân nhân của chính mình mà bắt đầu"]. Chu Đệ đối với tiến ngôn của bà luôn đánh giá cao và tiếp thu. Cũng vào lúc Tĩnh Nam chi biến xảy ra, Từ gia chia thành hai phe. Trưởng đệ của Từ thị là Từ Huy Tổ đứng về phe đối đầu với Chu Đệ bảo vệ Minh Huệ Đế, trong sự kiện Lý Cảnh Long công phá Bắc Bình còn có sự giúp đỡ của Huy Tổ. Vì muốn giúp chồng hoàn thành đại nghiệp, Từ thị đã đau đớn gạt bỏ tình thân đứng thế đối đầu với chính em trai ruột mình, bỗng chốc từ chị em trở thành kẻ địch. Sau khi Chu Đệ thành công soán vị, Huy Tổ không phục, nhưng vì Minh Thái Tổ có lệnh "Hậu duệ của Trung Sơn vương được miễn tội chết" nên ông chỉ bị giam cầm trong nhà. Em trai khác của bà là Từ Tăng Thọ, vì thường giúp Yên vương dò la tin tức nên bị hại chết. Sau khi Chu Đệ lên ngôi, đề nghị truy phong, bà không nhận, nhưng ông nhất quyết tặng làm Định Quốc công (定國公). Sự thành, Chu Đệ mới nói cho bà biết, bà nói: ["Việc này không phải ý của thiếp"], tỏ ý không vui.
Đối với nội trị của Chu Đệ, Từ Hoàng hậu đặc biệt quan tâm đối đãi các lão thần phò trợ ông, nên phần nào giúp Chu Đệ trong việc thu phục nhân tâm. Bà từng nói 2 con trai thứ là Hán vương cùng Triệu vương phẩm tính bất lương, nên chú ý chọn hiền tài. Có một ngày, bà hỏi: ["Bệ hạ là cùng những quan viên nào trị lý quốc gia?"], ông đáp: ["Lục khanh quản lý chính vụ, còn Hàn Lâm viện là phác thảo công văn"]. Từ Hoàng hậu nghe vậy, cho triệu các mệnh phụ là vợ của các quan viên vừa kể trên, ban thưởng cho họ và thường trò chuyện với họ, nói rằng: ["Thê tử phụng dưỡng trượng phu, đâu chỉ là chuẩn bị đồ ăn, quần áo mà thôi, hẳn là còn có những vấn đề khác đáng lưu tâm. Bằng hữu nói, thì có thể thuận theo, cũng có thể vi phạm; nhưng mà vợ chồng nói với nhau, tắc uyển chuyển dễ nghe, dễ hạp lòng người. Ta sớm chiều phụng dưỡng Hoàng thượng, chỉ dốc lòng muốn vì bá tánh, các ngươi cũng nên cổ vũ trượng phu của mình như vậy"]. Từ Hoàng hậu còn cho ban hành cả nước cuốn Nội huấn (內訓) gồm 20 thiên; còn cho trích lời gia huấn cổ nhân mà viết thành Khuyến thiện thư (勸善書), để giảng công đức cho phụ nữ khắp cả nước và truyền bá tư tưởng quy thiện cho nhân dân thiên hạ. Việc làm của bà giúp Chu Đệ lấy được nhân tâm, giúp đỡ xóa nhòa đi việc cướp ngôi của Chu Đệ.
Qua đời
Năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Từ Huy Tổ qua đời khi chỉ mới 40 tuổi, đối với việc này thì nhiều nguồn nhận định ông bị Chu Đệ ban chết. Vì nhà Minh thiện đãi nhà họ Từ, ["Trung Sơn vương không thể vô tự"], cho nên con của Huy Tổ là Từ Khâm kế thừa tước Ngụy Quốc công.
Không rõ chuyện này và lời đồn tác động ra sao, nhưng vào tháng 7 ÂL cùng năm, Từ Hoàng hậu bệnh nặng. Trước khi lâm chung, bà khuyên bảo Chu Đệ yêu quý bá tánh, tìm kiếm hiền tài, đối Tôn Thất nên lấy ân lễ mà đãi, không cần kiêu dưỡng ngoại thích. Lại báo cho Hoàng thái tử Chu Cao Sí rằng: ["Khi xưa các bá tánh thê nhi cùng ta tử thủ Bắc Bình. Ta hối tiếc chưa từng được cùng Hoàng thượng bắc tuần, nếu có thể con hãy thay ta chăm sóc cho họ"]. Thế rồi vào ngày 4 tháng 7 (âm lịch) năm ấy, Từ Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 46 tuổi. Chu Đệ cực kì bi thống, sai Linh Cốc tự và Thiên Hi tự vì bà mà làm đại lễ ăn chay cầu siêu, mệnh Quang lộc tự chuẩn bị tế điện vật phẩm. Ngày 14 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, Chu Đệ quyết định thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng hậu Từ thị là [Nhân Hiếu Hoàng hậu; 仁孝皇后].
Năm Vĩnh Lạc thứ 7 (1409), Chu Đệ bắc tuần, có ý quyết dời đô. Cũng tại đây, Chu Đệ quyết định núi Thiên Thọ Sơn thuộc chọn huyện Xương Bình làm lăng khu cấm địa, dự định xây lăng mộ và táng Nhân Hiếu Hoàng hậu tại đây. Năm thứ 11 (1413), địa cung hoàn thành, kim quan của Nhân Hiếu Hoàng hậu được chuyển từ Nam Kinh đến Bắc Kinh để đưa vào an táng, tức Trường lăng (長陵). Bà là người đầu tiên được táng trong Minh thập tam lăng (明十三陵). Sau khi Chu Cao Sí lên ngôi, tức Minh Nhân Tông, thụy hiệu của bà được dâng là Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng hậu (仁孝慈懿誠明庄獻配天齊聖文皇后). Phối hưởng Thái miếu.
Sau khi Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu qua đời, có truyền thuyết nổi tiếng về việc Chu Đệ muốn cưới em gái út của bà làm vợ kế. Người em gái ấy, chính sử không lưu lại tên, nhưng dân gian chế ra cái tên gọi là [Từ Diệu Cẩm]. Sau khi bà qua đời, Chu Đệ chỉ sủng ái hai phi tần có tiếng, là Chiêu Hiến Quý phi Vương thị cùng Cung Hiến Hiền phi Quyền thị; riêng Vương thị là do làm theo sự cung kiệm của Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu nên mới được Chu Đệ ưa thích.
Hậu duệ
Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu hạ sinh cho Minh Thành Tổ được 3 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ:
Minh Nhân Tông Chu Cao Sí [朱高炽], hoàng đích trưởng tử.
Vĩnh An công chúa [永安公主; 1377 - 1417], hoàng đích trưởng nữ, tên Ngọc Anh (玉英), hạ giá lấy Quảng Bình hầu Viên Dung (袁容).
Vĩnh Bình công chúa [永平公主; 1379 - 1444], hoàng đích thứ nữ, hạ giá lấy Phú Dương hầu Lý Phượng (李让).
Chu Cao Hú [朱高煦; 30 tháng 12, 1380 - 6 tháng 10, 1426], hoàng nhị tử, tước phong là Cao Dương Quận vương (高阳郡王), về sau cải thành Hán vương (漢王). Sinh thời ông cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được Minh Thành Tổ coi trọng, từng có ý được lập Thái tử. Nhưng do sự can ngăn của Hoàng hậu cùng quần thần mà Minh Thành Tổ quyết định lập đích trưởng tử là Chu Cao Sí, khiến ông bất mãn, từ đó nuôi ý noi gương Minh Thành Tổ mà đoạt ngôi từ anh. Phát động Cao Hú chi loạn (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là Minh Tuyên Tông bắt giam và giết chết.
Chu Cao Toại [朱高燧; 19 tháng 1, 1383 - 5 tháng 10, 1431], hoàng tam tử, tước phong là Triệu vương (趙王). Sau khi qua đời được truy thụy là Giản (簡).
An Thành công chúa [安成公主; 1384 - 1443], hạ giá Tống Hổ (宋琥), con trai thứ của Tây Ninh hầu Tống Thịnh (宋晟).
Hàm Ninh công chúa [咸宁公主; 1385 - 1440], hạ giá lấy Tống Anh (宋瑛), con trai út của Tây Ninh hầu Tống Thịnh.
Trong văn hóa đại chúng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Thánh Văn Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖文皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Thành Tổ Thánh Văn hoàng hậu
**Ất Phất hoàng hậu** (chữ Hán: 乙弗皇后) (510–540), thụy hiệu: **Văn hoàng hậu** (文皇后) là hoàng hậu thứ nhất của Tây Ngụy Văn Đế (西魏文帝) Nguyên Bảo Cự (元寶炬) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Hiếu Huệ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝惠皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Hán Hiếu Huệ Đế Hiếu Huệ
**Hiếu Trang Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝莊皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Anh Tông Hiếu Trang Hoàng Hậu
**Hiếu Trinh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝貞皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Hiến Tông đệ nhị nhiệm Hiếu
**Hiếu Khang Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝康皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Minh Hưng Tông Hiếu Khang
**Hiếu Đoan Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝端皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Thần Tông Hiếu Đoan hoàng hậu
**Hiếu Định Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝定皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Minh Mục Tông Hiếu Định
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Trinh Hoàng hậu** (_chữ Hán_:貞皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế
**Uất Cửu Lư hoàng hậu** (chữ Hán: 郁久閭皇后, 525–540), thụy hiệu **Điệu hoàng hậu** (悼皇后) là hoàng hậu thứ hai của Tây Ngụy Văn Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Hoàng hậu Phụ thân
**Hiếu Tĩnh Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靜毅皇后; 5 tháng 4, 1492 - 26 tháng 2, 1535), còn gọi là **Trang Túc Hoàng hậu** (莊肅皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Vũ Tông Chu
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy