✨Quang Tự

Quang Tự

Thanh Đức Tông (chữ Hán: 清德宗; 14 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 11 năm 1908), Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 1875 đến năm 1908 chỉ với một niên hiệu là Quang Tự nên thường được gọi là Quang Tự Đế (光緒帝).

Mặc dù thời kỳ cai trị của ông và người tiền nhiệm Đồng Trị Đế tiếp tục cho thấy sự suy vong của Đại Thanh, nhưng những cải cách trong thời kỳ ấy khiến cho nền kinh tế Trung Quốc được phục hồi và được mở rộng sang thị trường quốc tế nên sử sách gọi là Đồng Quang trung hưng (同光中興). Mặc dù sự trung hưng này không đủ để phục hồi vị thế nhà Thanh trở lại thịnh trị như thời Khang Hi - Càn Long, nhưng khiến cho triều đại tiếp tục cai trị Trung Quốc thêm 60 năm.

Cuộc đời

thumb|Vua Quang Tự cùng các cận thần

Xuất thân

Quang Tự Đế tên đầy đủ là Ái Tân Giác La Tải Điềm (愛新覺羅·載湉). Tải Điềm có quan hệ huyết thống gần với các Hoàng đế trong số các thành viên Hoàng tộc. Tổ phụ của ông là Đạo Quang Đế, tổ mẫu là Trang Thuận Hoàng quý phi Ô Nhã Thị. Thân phụ là Thuần Hiền Thân vương Ái Tân Giác La Dịch Hoàn, em cùng cha khác mẹ với Hàm Phong Đế. Thân mẫu là Diệp Hách Na Lạp Uyển Trinh, em gái của Từ Hi Thái hậu.

Xét vai vế gia tộc, Tải Điềm là cháu gọi Hàm Phong Đế bằng bác; gọi Từ Hi vừa bằng dì, vừa bằng bác dâu; và là đường đệ lẫn biểu đệ của Đồng Trị Đế. Điều này khiến ông trở thành ứng cử viên sáng giá cho vị trí Tân đế sau khi Đồng Trị băng hà.

Đại Thanh Hoàng đế

thumb|[[Xu bạc: 1 Dollar Thương mại Nhà Thanh, đúc dưới thời Vua Quang Tự, tại Tỉnh Hồ Bắc (1895 - 1907)]] thumb|[[Xu bạc: 1 Dollar Thương mại Nhà Thanh, đúc dưới thời Vua Quang Tự, tại Tỉnh Giang Nam, 1904]] Tháng 6 năm Đồng Trị thứ 14 (1875), Đồng Trị Đế qua đời không con. Triều đình họp nghị chính để chọn ra người kế vị. Sau khi thống nhất, Từ An và Từ Hi Thái hậu hạ chỉ đưa Tải Điềm vào cung, chọn làm con nối nghiệp Hàm Phong Đế. Ngày 1 tháng 6, Tái Điềm lên ngôi, lấy hiệu Quang Tự (光緒), khi đó chỉ mới 4 tuổi.

Năm Quang Tự nguyên niên (1876), ngày 20 tháng 1, Quang Tự Đế chính thức đăng quang tại Thái Hòa điện, tế cáo Thiên địa, Tông miếu, Xã tắc. Sau đó đến Càn Thanh cung lạy trước ngự dung của Đồng Trị Đế, rồi Chung Túy cung lạy Từ An Thái hậu, Trường Xuân cung lạy Từ Hi Thái hậu, cuối cùng là đến Trữ Tú cung lạy Gia Thuận Hoàng hậu.

Theo Nguyễn Hiến Lê thì ngay từ khi vào cung, tiểu Hoàng đế đã bị Từ Hi ngược đãi, hơi chút là quát tháo, đánh đập, bắt quỳ vài canh giờ. Do vậy, Quang Tự sợ bà như cọp, bảo gì cũng nghe. Thậm chí từng có đồn đại rằng Thái giám Lý Liên Anh, vốn được Từ Hi sủng ái, cũng hùa theo ăn hiếp Quang Tự. Có thuyết cho rằng Quang Tự sủng ái Trân phi, khiến Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị ghen tị. Trong lúc xảy ra Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (năm 1900), dân gian đồn thổi Trân phi bị Lý Liên Anh xô xuống giếng chết.

Tuy vậy, nhiều ý kiến trái chiều cho rằng Từ Hi rất thương Quang Tự. Bản thân bà mô tả Quang Tự: _"từ nhỏ ốm yếu, tì vị hư nhược_, lúc vào Tử Cấm Thành để lĩnh chỉ nối ngôi cũng không thể tự đi, phải có người ẵm. Hàng ngày ngự thiện phòng chuẩn bị mấy chục món ăn song đều không hợp khẩu vị của tiểu Hoàng đế. Có vẻ thân phụ mẫu không để tâm đến chế độ dinh dưỡng''. Điều này cho thấy bà từng rất quan tâm Quang Tự, nhưng tính lộng quyền đã khiến bà quản thúc chặt chẽ từ việc triều chính đến chuyện ở hậu cung.

Quang Tự làm Hoàng đế chỉ là hư vị, mọi quyền hành đều nằm trong tay Lưỡng cung Thái hậu vốn đang thùy liêm thính chính. Chỉ dụ của Lưỡng cung gọi là Ý chỉ (懿旨), còn của Hoàng đế gọi là Dụ chỉ (谕旨). Năm Quang Tự thứ 5 (1880), Từ Hi Thái hậu lâm bệnh nặng, kéo dài đến tận sang năm. Khoảng thời gian này, triều chính do Từ An Thái hậu một mình xử lý. Tháng 3 năm Quang Tự thứ 6 (1881), Từ An Thái hậu băng, Từ Hi Thái hậu bắt đầu một mình nhiếp chính.

Giữa năm 1881 tới 1883, Từ Hi Thái hậu chủ yếu trao đổi với các đại thần qua văn bản, còn Quang Tự Đế buộc thiết triều vài lần mà không có Từ Hi ở sau thính chính. Năm sau (1884), Từ Hi Thái hậu nắm lại quyền hành, không ai dám ngăn cản bà chuyên quyền, kể cả chính Quang Tự Đế.

Qua đời

Chính biến Mậu Tuất (1898) xảy ra, Hoàng đế Quang Tự bị giam 10 năm ở Doanh Đài, trong một căn phòng bẩn thỉu, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, chịu nhục nhã cho đến khi chết (1908). Lược theo Sử Trung Quốc (Tập 2, tr. 251). Tác giả Phổ Nghi cho biết cái chết của Quang Tự là một nghi án. Theo lời kể của viên thái giám già Lý Tường An, thì Quang Tự mất vì bị Khánh Thân vương Dịch Khuông và Viên Thế Khải đầu độc. Cũng có lời đồn đãi cho rằng do Từ Hi giết chết vì "bà không cam tâm chết trước vua Quang Tự" (Nửa đời đã qua, tr. 29-30).

Năm 2008, các nhà khoa học Trung Quốc đã khám nghiệm tử thi của Quang Tự Đế và kết luận rằng ông bị đầu độc bằng thạch tín . Hàm lượng thạch tín trong người ông cao gấp 2400 lần so với bình thường và cao hơn 132 lần so với các quan viên nhà Thanh đương thời. Phần áo quan ở vùng bụng ông chứa hàm lượng thạch tín cao bất thường so với các vùng khác, chứng tỏ chất độc được đưa vào qua đường thức ăn, thay vì tích luỹ theo thời gian do thuốc đông y thời bấy giờ có chứa một lượng nhỏ thạch tín.

Hoàng đế Quang Tự qua đời ngày 14 tháng 11 năm 1908 (một ngày trước khi Thái hậu Từ Hi mất) ở tuổi 37 và ở ngôi được 33 năm. Ông được quần thần tôn hiệu là Đức Tông - Đồng Thiên Sùng Vận Đại Trung Chí Chính Kinh Văn Vĩ Vũ Nhân Hiếu Mẫn Trí Đoan Kiệm Khoan Cần Cảnh Hoàng đế, gọi tắt là Đức Tông Cảnh Hoàng đế (德宗-景皇帝).

Kế ngôi Quang Tự là Ái Tân Giác La Phổ Nghi, tức Tuyên Thống Đế. Đây là vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại Mãn Thanh (1644-1912).

Chính biến Mậu Tuất

Sau trận Chiến tranh Thanh-Nhật (tháng 7 năm 1894), bị một nước nhỏ là Nhật Bản đánh thua, nhiều kẻ sĩ Trung Quốc bỗng thức tỉnh. Họ nhận ra rằng cần mà phải thay đổi chế độ và duy tân mọi mặt mới chấn hưng được nước nhà. Trong số ấy, có Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (học trò ông Vi) là người hăng hái nhất.

Sau vài lần dâng thư lên Hoàng đế Quang Tự xin biến pháp duy tân (gọi vắn là biến pháp), bị các đình thần không đồng tình ém nhẹm, tháng 6 năm 1896, thầy trò Khang Hữu Vi lại dâng thư lần nữa. Lần này nhờ có Ông Đồng Hòa (đang làm Thượng thư bộ Hộ, tước Hiệp biện đại học sĩ, trước là thầy học của Quang Tự) tiến cử nên thành công.

Tuy nhiên, mãi đến ngày 11 tháng 6 năm Quang Tự thứ 28 (1898), công cuộc biến pháp mới chính thức khởi sự, vì lúc này Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa viên, giao lại mọi quyền hành cho Hoàng đế (dĩ nhiên vẫn luôn theo dõi mọi hành động của Quang Tự).

Thế nhưng chỉ mấy ngày sau, thì vấp phải sự chống đối của phái Hậu đảng, tức phe phái của Thái hậu Từ Hi. Đàm Tự Đồng, một thành viên của phái duy tân, thấy vậy bèn khuyên Quang Tự đoạt lấy chính quyền. Hoàng đế nghe lời bèn triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên.

Chẳng may việc đó bị tiết lộ (chính Viên phản Hoàng đế Quang Tự, vì thấy Từ Hi và phe cánh của bà hãy còn mạnh). Sau đó, dựa vào lực lượng quân đội của Vinh Lộc (Tổng đốc Trực Lệ), bà ra lệnh bắt giam Hoàng đế Quang Tự và các thành viên đứng đầu phái Duy Tân, đồng thời cho bãi bỏ hết những cải cách mà Hoàng đế vừa ban ra. Sử gọi vụ đấy là Chính biến Mậu Tuất (1898), là Bách nhật duy tân (Cuộc cải cách trăm ngày).

Cuộc đời làm vua của Quang Tự gắn lền với công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất (1898). Về sau khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc ở giai đoạn này, nhà sử học Will Durant đã tiếc rằng: :Tuy Từ Hi thái hậu và các cận thần của bà cực lực chống đối phong trào ấy (duy tân), nhưng nó vẫn ngầm lôi cuốn được ông vua trẻ là Quang Tự. Rồi đột nhiên, nhà vua không hỏi ý kiến "Phật bà" (Từ Hi), ban hành một loạt lệnh sắc táo bạo. Nếu những sắc lệnh này thực hành được thì Trung Hoa đã yên ổn nhảy một bước lớn lao theo con đường Âu hóa, nhà Thanh không bị sụp đổ, mà Trung Hoa cũng không bị khốn cùng.

Nhưng cũng có ý kiến trái ngược về vua Quang Tự, nói rằng các cải cách ông ban ra nhằm phục hồi vị thế nhà Thanh thực hiện quá dồn dập trong một thời gian ngắn, không đạt kết quả như mong đợi và đã phản tác dụng, gây ra nhiều xáo trộn trong cuộc sống của nhân dân.

Câu nói lưu danh

Sợ mất lộc vị, phái thủ cựu (Hậu đảng) mà người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi, đã chống đối việc cải cách rất quyết liệt. Thế nhưng, Hoàng đế Quang Tự cương quyết, bảo:

Gia đình

Cha mẹ

  • Cha ruột: Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn (醇賢親王; 1840–1891), con trai Đạo Quang Hoàng đế và Trang Thuận Hoàng quý phi Ô Nhã thị, em trai cùng cha khác mẹ với Hàm Phong Hoàng đế, ông nội của Phổ Nghi Hoàng đế.
  • Mẹ ruột: Diệp Hách Na Lạp Uyển Trinh (葉赫那拉婉貞), em gái Từ Hi Thái hậu, thuộc dòng họ Diệp Hách Na Lạp (葉赫那拉).
  • Cha nuôi (trên danh nghĩa): Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế (清文宗咸豐帝; 17 tháng 7, 1831 – 22 tháng 8, 1861). Theo chiếu chỉ của hai vị Thái hậu, Quang Tự đăng cơ với thân phận "con thừa tự" của Hàm Phong Đế.
  • Mẹ nuôi: Từ An Thái hậu: Chính cung hoàng hậu của Hàm Phong Đế, Mẫu hậu Hoàng thái hậu (母后皇太后) dưới thời vua Đồng Trị, nhiếp chính những năm đầu khi Quang Tự lên ngôi. Từ Hi Thái hậu: Hậu cung phi tần của Hàm Phong Đế, Thánh mẫu Hoàng thái hậu (聖母皇太后) dưới thời vua Đồng Trị. Vừa là bác dâu (vợ của Hàm Phong Đế), vừa là dì ruột (chị của Uyển Trinh), chịu trách nhiệm chính trong việc giáo dục Tân đế. Có sử cho rằng Từ Hi ép Quang Tự gọi mình là Thân Ba Ba (親爸爸 - tức cha đẻ) với mục đích xác lập vị trí trụ cột cho bản thân.

Thê thiếp

thumb|Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị

  • Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị (孝定景皇后, 28/01/1868 - 22/02/1913): cháu gái Từ Hi Thái hậu, chị họ của Quang Tự. Năm 1889, bà thành hôn với Quang Tự Đế, cùng ngày nhập cung được sách lập làm Hoàng hậu. Đến thời Tuyên Thống được tôn làm Long Dụ Thái hậu, là Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Thanh cũng như thời phong kiến Trung Quốc. Bà là nhiếp chính dưới thời Phổ Nghi và ký "Thanh đế thoái vị chiếu thư" ngày 12 tháng 2, 1912.
  • Ôn Tĩnh Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị (端康皇貴妃, 15/01/1873 - 23/12/1924): cháu nội cựu Thống đốc Thiểm Tây và Cam Túc, cha là Tả Thị lang Bộ Lễ Trường Tự. Nhập cung sơ phong Cẩn tần (瑾嬪), sau thăng Cẩn phi (瑾妃). Năm 1894, hàng vị Quý nhân. Một năm sau, phục vị Cẩn phi (瑾妃). Quang Tự băng hà, bà được tôn làm Cẩn Quý phi (瑾貴妃) rồi Đoan Khang Hoàng quý phi (端康皇貴妃), cùng 3 phi tần của Đồng Trị chịu trách nhiệm giáo dục hoàng đế Phổ Nghi sau khi vào cung.
  • Khác Thuận Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị (恪順皇貴妃, 27/02/1876 - 15/08/1900): em gái Đoan Khang Hoàng quý phi. Nhập cung sơ phong Trân tần (珍嬪), sau thăng Trân phi (珍妃). Năm 1894, hàng vị Quý nhân. Một năm sau, phục vị Trân phi (珍妃). Là phi tần được Quang Tự sủng ái nhất vì có tư tưởng tiến bộ, thích vẽ tranh, thư pháp, chụp ảnh,... và ủng hộ canh tân, cải cách chính trị. Qua đời truy tặng làm Trân Quý phi (珍貴妃). Năm 1921, bà được truy tặng làm Khác Thuận Hoàng quý phi (恪順皇貴妃). Có lời đồn trong cuộc Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900, bà bị Từ Hi Thái hậu sai Lý Liên Anh xô xuống giếng chết.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quang tử học** là ngành khoa học kĩ thuật nghiên cứu về phát và điều khiển ánh sáng, đặc biệt là việc sử dụng ánh sáng để mang thông tin. Vì nó đã vượt ra
Ngọc opal trên chiếc vòng này là các vi cấu trúc có chu kỳ không gian tạo nên khả năng phát [[ngũ sắc. Đây là một tinh thể quang tử tự nhiên, tuy chưa có
**Thanh Đức Tông** (chữ Hán: 清德宗; 14 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 11 năm 1908), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh
**Trần Quang Tứ** (15 tháng 8 năm 1926 – 27 tháng 7 năm 2020) là một doanh nhân và tài tử điện ảnh người Việt Nam. ## Cuộc đời Trần Quang Tứ sinh ngày 15
thumb|Hộp nối cáp quang. Cáp màu vàng là loại sợi đơn; Các sợi cam và xanh dương là các sợi đa mode: lần lượt là sợi OM3 62,5/125 μm OM1 và 50/125 μm OM3. **Truyền
thumb|right|Quang học nghiên cứu hiện tượng [[tán sắc của ánh sáng.]] **Quang học** là một ngành của vật lý học nghiên cứu các tính chất và hoạt động của ánh sáng, bao gồm tương tác
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
nhỏ|phải|Hematit: Loại quặng sắt chính trong các mỏ của Brasil. nhỏ|phải|Kho dự trữ quặng sắt vê viên này sẽ được sử dụng trong sản xuất [[thép.]] **Quặng sắt** là các loại đá và khoáng vật
Lá cây: nơi thực hiện quá trình quang hợp ở thực vật. **Quang tổng hợp** hay gọi tắt là **quang hợp** là quá trình thu nhận và chuyển hóa năng lượng ánh sáng Mặt trời
**Lý Quảng** (chữ Hán: 李廣, phiên âm Wade–Giles: _Li Kuang_, bính âm: _Li Guang_, ? - 119 TCN), còn có biệt danh là Phi tướng quân (飛將軍), là một võ tướng dưới thời nhà Hán
**Tuyên Quang** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Việt Nam. ## Trước năm 1945 Tên gọi Tuyên Quang xuất hiện sớm nhất trong cổ thư ở nước ta là
thế=Một vầng hào quang 22° quanh Mặt Trời, được nhìn thấy trước trại cơ sở Annapurna, Annapurna, Nepal.|nhỏ|347x347px|Một vầng hào quang 22° quanh Mặt Trời, được nhìn thấy trước trại cơ sở Annapurna, [[Annapurna, Nepal.]]
là tiết độ sứ Sóc Phương dưới triều nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, Lý Hoài Quang là thuộc tướng dưới quyền đại tướng quân Quách Tử Nghi. Sau khi Quách Tử
nhỏ|Sơ đồ vùng đất Lưỡng Quảng được vẽ vào năm 1900 - những năm cuối của nhà Thanh trước khi bị sụp đổ **Lưỡng Quảng** (chữ Hán: 兩廣; bính âm: _Liǎngguǎng_; Phiên âm tiếng Quảng:
phải|nhỏ|Quang dưỡng trên cạn và thủy sinh: thực vật mọc trên một gốc cây đổ trôi nổi trên mặt nước nhiều tảo. **Sinh vật quang dưỡng** là các sinh vật thực hiện bắt giữ photon
**Mã Hy Quảng** (, ?-25 tháng 1 năm 951 và là em trai cùng mẹ với Mã Hy Phạm- con trai thứ tư của Mã Ân, hai người là con của Trần phu nhân. Do
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
**Quang Thọ** (tên đầy đủ là **Nguyễn Quang Thọ**, sinh ngày 3 tháng 12 năm 1948, quê ở Quảng Ninh), là một ca sĩ giọng baritone và giảng viên thanh nhạc người Việt Nam. Ông
Kính hiển vi huỳnh quang (_Fluorescence microscope_) là một kỹ thuật hiển vi quang học, trong đó sử dụng hiệu ứng phát huỳnh quang của vật mẫu để tạo ra hình ảnh, để nghiên cứu
**Quang dẫn** là một hiện tượng quang - điện trong đó vật liệu trở nên dẫn điện hơn do sự hấp thụ bức xạ điện từ như ánh sáng nhìn thấy, tia hồng ngoại, tia
**Đại hội Đại biểu Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** là đại hội đại biểu nhân dân địa phương của Khu tự trị Tây Tạng. Sau các quyết định của Đại hội Đại biểu
**Diode quang** hay **Photodiode** là một loại _diode bán dẫn_ thực hiện chuyển đổi photon thành điện tích theo hiệu ứng quang điện. Các photon có thể là ở vùng phổ ánh sáng nhìn thấy,
**Khuếch đại quang học** hay **khuếch đại tín hiệu quang học** là thiết bị trực tiếp khuếch đại tín hiệu quang học mà không cần phải chuyển đổi nó thành tín hiệu điện. Một bộ
**Người Kinh Tam Đảo** (chữ Nôm: 𠊛京三島) hay **Kinh tộc Tam đảo** (chữ Hán phồn thể: 京族三島, bính âm: _Jīngzú Sàndăo_) là tên gọi đặc trưng được dùng để chỉ cộng đồng thiểu số người
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**_Hiệu ứng từ quang Kerr_** (tiếng Anh: _Magneto-optic Kerr effect_, viết tắt là _MOKE_) là một hiệu ứng quang từ mà ở đó ánh sáng phản xạ trên các bề mặt của vật liệu bị
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Quang học lượng tử** là một môn học về ánh sáng có mức năng lượng lượng tử được tìm thấy từ các hiện tượng Bức Xạ Điện Từ, Quang Điện, Phân rã Phóng Xạ Hạt
**Phát xạ tự phát** là quá trình phát xạ xảy ra ở một hệ thống lượng tử đang ở trạng thái kích thích chuyển dời sang một trạng thái có năng lượng thấp hơn (hoặc
**Tỉnh ủy Tuyên Quang** hay còn được gọi **Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang**, hay **Đảng ủy tỉnh Tuyên Quang**. Là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
Cam kết tất cả các hạt vòng 100 gỗ Nu Huyết Long thấu quang từ 30 đến 100 để mộc không phủ dầu bóng, hàng VIP được tuyển chọn từng hạt, rất nhiều tinh dầu
Ảnh cấu trúc đômen của màng mỏng [[permalloy chụp trên kính hiển vi điện tử truyền qua Philips CM20 ở chế độ Fresnel, cho tương phản về các vách đômen 90o và các gợn sóng.]]
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
**Mạng lượng tử** là mạng lưới truyền thông hoạt động dựa trên các nguyên tắc của cơ học lượng tử, đặc biệt là cơ chế vướng víu lượng tử. ## Lịch sử phát triển Ngày
Sự xuất hiện của Vật lý lượng tử và thuyết tương đối là một cuộc cách mạng của Vật lý học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và là cơ sở khoa
**Điện tử học spin** (tiếng Anh: _spintronics_) là một ngành đa lĩnh vực mà mục tiêu chính là thao tác và điều khiển các bậc tự do của spin trong các hệ chất rắn. Nói
Đường cong từ trễ - Đặc trưng quan trọng nhất của chất sắt từ **Sắt từ** là các chất có từ tính mạnh, hay khả năng hưởng ứng mạnh dưới tác dụng của từ trường
Bàn chải đánh răng ion (không cần dùng kem đánh răng) cho trẻ từ 1,5 tuổi (màu hồng) và cho trẻ từ 6 tuổi (màu xanh) - Chất liệu: lông bàn chải chứa bột quặng
Bàn chải đánh răng ion cho trẻ từ 1,5 tuổi (bé đánh răng không cần kem đánh răng vẫn sạch) - Nhật Bản- Đây là dòng bàn chải ion của Nhật, chỉ dùng nước mà
Bàn chải đánh răng ion cho trẻ từ 6 tuổi (không cần dùng kem đánh răng) - Nhật Bản- Đây là dòng bàn chải ion của Nhật, chỉ dùng nước mà không cần dùng kem
Bàn chải đánh răng ion cho trẻ từ 6 tuổi (không cần dùng kem đánh răng) - Nhật Bản- Đây là dòng bàn chải ion của Nhật, chỉ dùng nước mà không cần dùng kem
Lông bàn chải chứa bột quặng tự nhiên sẽ sản sinh ra ion âm làm sạch răng mà không cần dùng kem đánh răng, khả năng đánh sạch mảng bám cao hơn so với bàn
Đường cong từ trễ của hai loại vật liệu [[sắt từ, vật liệu từ cứng và vật liệu từ mềm, và các thông số của vật liệu được xác định trên đường cong từ trễ]]**Từ
**Quảng Châu** (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: _Guǎngzhōu_, Wade-Giles: _Kuang-chou_, việt phanh: _Gwong2zau1_, Yale: _Gwóngjaū_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Phim quảng cáo** (hoặc còn gọi hẹp là **Quảng cáo truyền hình**, theo thuật ngữ tiếng Anh là _television advertisement_ hay _television commercial_ -viết tắt _TVad_ hay _TVC_- hoặc thường được gọi đơn giản là
**Quảng cáo trực tuyến**, còn được gọi là **tiếp thị trực tuyến**, quảng cáo Internet, **quảng cáo** **kỹ thuật số** hoặc **quảng cáo web**, là một hình thức tiếp thị và quảng cáo sử dụng
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Quảng Ngãi** là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ. Phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía tây và phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp Biển Đông. ## Thời Chúa