✨Lý Hoài Quang

Lý Hoài Quang

là tiết độ sứ Sóc Phương dưới triều nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, Lý Hoài Quang là thuộc tướng dưới quyền đại tướng quân Quách Tử Nghi. Sau khi Quách Tử Nghi bị tước binh quyền năm 779, Lý Hoài Quang được giao cai quản một phần của Sóc Phương với danh hiệu là tiết độ sứ Bân Ninh (thuộc Ngân Xuyên), sang năm 780 thì chính thức được bổ làm Tiết độ sứ Sóc Phương. Khi sự biến Phụng Thiên nổ ra, Lý Hoài Quang đem quân chủ lực của mình đến Phụng Thiên cứu giá, đánh lui cuộc tấn công của tặc Thử. Tuy nhiên về sau do bất mãn với thừa tướng Lư Kỉ nên ông trở mặt, liên kết với Thử phản lại triều đình; về sau dời đến đất Hà Trung. Khi Chu Thử bị diệt, Lý Hoài Quang có ý định quy hàng nhưng bị tướng sĩ phản đối, và sau đó lại chịu sự tấn công từ triều đình nhà Đường. Năm 785, sau nhiều thất bại nặng nề liên tiếp, Lý Hoài Quang bị buộc phải tự tử, cuộc nổi dậy của ông bị dẹp tan.

Dưới quyền Quách Tử Nghi

Lý Hoài Quang chào đời năm 729 dưới triều vua Huyền Tông nhà Đường. Ông nguyên là người tộc Mạt Hạt đến từ Bột Hải quốc, vốn mang họ Như. Tổ tiên gần của ông di cư từ Bột Hải đến U châu, thần phục nhà Đường. Cha Hoài Quang là Như Thường, do lập được nhiều chiến công nên được ban quốc tính là Lý, ban tên Gia Khánh. Hoài Quang từ nhỏ đã tòng quân, được đánh giá là người dũng cảm, giỏi võ nghệ, do đó được tiền tiết độ sứ Quách Tử Nghi xem trọng. Giữa những năm Thượng Nguyên thời Đường Túc Tông, ông được cử làm Sóc Phương quân đô ngu hậu Tân Vân Kinh gièm pha là có ý mưu phản, tướng Bộc Cố Hoài Ân nổi dậy, chiếm cứ Sóc Phương và sau đó ông ta liên kết với Thổ Phiên chống lại triều đình. Lúc đó Quách Tử Nghi bị bãi binh quyền, Bộc Cố Hoài Ân giao quyền cho một số tướng cũ của Tử Nghi trấn giữ các nơi, trong đó Lý Hoài Quang đóng quân tại Tấn châu. Đến năm 764, Hoài Ân tại Hà Trung ra mặt làm phản, triều đình có chiếu dùng lại Quách Tử Nghi là Tiết độ sứ Sóc Phương, vì thế Lý Hoài Quang và nhiều tướng khác quay trở về với Tử Nghi. Cuộc nổi dậy của Bộc Cố Hoài Ân về sau bị đánh diệt năm 765.

Năm 767, Lý Hoài Quang theo Quách Tử Nghi tấn công tiết độ sứ nổi dậy tại Đồng Hoa Chu Trí Quang. Lý Hoài Quang cùng Hồn Giám được cử làm tiên phong. Ngay trước khi hai người tới nơi thì Chu Trí Quang đã bị thuộc hạ giết chết, cuộc nổi dậy chấm dứt. Năm (769), kiêm Ngự sử trung thừa, rồi Ngự sử đại phu, quân đô ngu hậu (770). Năm 777, quân Thổ Phiên đem quân xâm nhập đất nhà Đường, Lý Hoài Quang được cử đem quân đánh dẹp và đẩy lui được bọn chúng.

Cũng năm đó, mẹ Lý Hoài Quang qua đời, ông tạm nghỉ chức về chịu tang. Năm sau (778), ông được triệu dùng trở lại, được giao làm Đô tướng thống lĩnh quân đội Bân châu, Ninh châu và Khánh châu. Vào thời gian này, ông cũng nhiều lần đẩy lui sự xâm lược của Thổ Phiên. Không bao lâu sau, Đức Tông xuống chiếu phong Quách Tử Nghi làm Thượng phụ, một danh hiệu hết sức vinh dự, nhưng thực ra vua ngấm ngầm tước binh quyền của Tử Nghi. Trấn Sóc Phương sau đó được phân chia cho các bộ tướng cũ của Tử Nghi như Hồn Giám, Thường Khiêm Quang và cả ông, trong đó Lý Hoài Quang được cử làm Kiểm giáo Hình bộ thượng thư kiêm Hà Trung doãn, Thứ sử Bân châu, Tiết độ sứ Bân Ninh, quản lý các châu Bân, Ninh, Khánh, Tấn, Hàng, Từ, Thấp tổng cộng 7 châu.

Năm 780, Tiết độ sứ Kinh Nguyên là Đoàn Tú Thực bị tể tướng Dương Viêm ghét bỏ và bị giáng chức làm Tư nông. Lúc bấy giờ Đức Tông phong cho Lý Hoài Quang kiêm nhiệm làm Kính châu thứ sử, Kinh Nguyên tứ trấn Bắc Đình tiết độ sứ. Do có tư oán từ trước nên khi nhận chức ở Kinh Nguyên, Lý Hoài Quang sát hại nhiều cựu tướng Sóc Phương như Ôn Nho Nhã, khiến quân sĩ dưới quyền không vừa ý. Lưu Văn Hỉ nắm lấy cơ hội đó liền xúi giục quân sĩ, chiếm thành làm loạn và yêu cầu triều đình bãi chức Lý Hoài Quang, cho Đoàn Tú Thực về trấn. Đức Tông quyết định cử Chu Thử đem quân đánh dẹp, thay thế Lý Hoài Quang nắm quyền ở Kinh Nguyên. Lưu Văn Hỉ vẫn muốn chống lại triều đình, đã sai người đến Thổ Phiên xin viện binh. Mãi về sau, thuộc tướng dưới quyền Lưu Văn Hỉ là Lưu Hải nổi dậy giết chết Hỉ rồi đầu hàng triều đình, chấm dứt cuộc nổi loạn.

Bấy giờ tình hình ở Hà Bắc trở nên rối loạn với cuộc nổi dậy của bốn trấn gồm Chu Thao ở Lư Long, Điền Duyệt ở Ngụy Bác, Vương Vũ Tuấn ở Thành Đức và Lý Nạp ở Tri Thanh. Khi các tiết độ sứ Mã Toại và Lý Bão Chân đang bao vây Điền Duyệt ở Ngụy châu thì Chu Thao và Vương Vũ Tuấn đem quân tới cứu, đẩy lui lực lượng triều đình. Năm 782, Đường Đức Tông hạ lệnh cho Lý Hoài Quang thống lĩnh quân đội Sóc Phương gồm 15.000 người tấn công Điền Duyệt. Hoài Quang tuy dũng cảm mà vô mưu; khi đến hội quân với Mã Toại và Lý Bão Chân, ông đề nghị rằng nên cho quân tấn công ngay lập tức, trái với ý kiến của Mã Toại là nên cho quân nghỉ ngơi một vài ngày. Hoài Quang không nghe, đem quân tập kích Chu Thao ở phía tây Khiếp Sơn. Sĩ tốt tranh nhau xông vào doanh của Thao, nhưng Vương Vũ Tuấn đã đem 2000 quân kị tới cứu, chia cắt lực lượng ủng hộ triều đình, nhân đó Chu Thao đưa quân ra truy kích, quan quân thua chạy. Quân triều đình sau đó buộc phải rút quân ra khỏi Ngụy châu. Sau trận này, Lý Hoài Quang cùng Mã Toại rút quân, được triều đình gia Đồng bình chương sự, thực phong 200 hộ. Bốn trấn nổi dậy sau đó quyết định li khai với triều đình bằng việc xưng vương hiệu vào cuối năm 782 bao vây, Đức Tông triệu tiết độ sứ Kinh Nguyên là Diêu Lệnh Ngôn tới cứu. Ngày 2 tháng 11 năm 783, Diêu Lệnh Ngôn dẫn 5000 quân Kinh Nguyên đến Trường An, nhưng do bị tiếp đãi sơ sài, tướng sĩ Kinh Nguyên đều tức giận, cùng cùng nhau tấn công vào cung. Vua hoảng sợ, vội triệu quân cấm vệ đến hộ giá nhưng không có ai đến cả, bất đắc dĩ phải bỏ Trường An, chạy về Phụng Thiên. Quân Kinh Nguyên cướp phá hoàng cung, đón Chu Thử vào cung tôn làm chủ. Chu Thử tự xưng là hoàng đế nước Đại Tần, về sau cải là Đại Hán.

Đức Tông bị nguy khốn, sai sứ đến Hà Bắc thông báo cho các tướng ở Hà Bắc đem quân về cứu giá. Mã Toại, Lý Bão Chân đều lui quân về trấn, trong khi Lý Hoài Quang theo lời khuyên của tướng dưới quyền là Thôi Túng, quyết định nhanh chóng đưa quân đến Phụng Thiên cứu vua. Khi quân của Lý Hoài Quang sắp đến Trường An thì Phụng Thiên đã bị quân giặc bao vây rất ngặt. Ông cử bộ tướng Trương Thiều đến Phụng Thiên yết kiến Đức Tông trước, thông báo việc quân của mình sắp đến. Sau đó ông khích lệ quân sĩ, đem quân đánh vào lực lượng của quân Tần tại Lễ Tuyền và đánh bại quân giặc. Chu Thử nghe tin hoảng sợ, liền rút quân về Trường An và về sau không còn tấn công vào Phụng Thiên nữa. Sử sách bình luận rằng việc cứu giá của Lý Hoài Quang là rất đúng lúc, nếu như quân của ông đến chậm vài ngày thì có lẽ Phụng Thiên đã không còn giữ được và lịch sử đã thay đổi.

Sau đó ông đưa quân về Phụng Thiên yết kiến thiên tử. Hoài Quang vốn căm ghét thừa tướng Lư Kỉ và một số gian thần được nhà vua tin tưởng như Triệu Tản, Bạch Chí Trinh. Ông nói :Đại loạn trong thiên hạ đều do bọn này mà ra. Ta yết kiến Hoàng thượng, sẽ xin giết hết. Tháng 2 ÂL, có chiếu gia phong Thái úy, ban thiết khoán, sai Lý Thăng và Đặng Minh Hạc đến thủ dụ. Hoài Quang giận nói: Phàm khi một người nào đó sắp nổi loạn thì ban cho thiết khoán. Nay ban cho Hoài Quang, thì dù ta không có ý phản, cũng bị buộc phải làm phản rồi.

Sự thực thì Lý Hoài Quang đã bí mật câu kết với Chu Thử từ lâu. Chu Thử tìm cách dụ Hoài Quang theo phe mình, hẹn ước sẽ chia nhau vùng Quan Trung để cùng xưng đế, kết làm anh em. Trong khi đó Lý Thịnh cũng cho rằng Hoài Quang sẽ nổi dậy và đề xuất phòng bị ở vùng Hán Trung và Thục. Đức Tông do dự và muốn đến Hàm Dương úy lạo quân sĩ của Lý Hoài Quang. Hoài Quang lo sợ rằng nhà vua có ý đề phòng mình nên càng quyết tạo phản. Đến đây khi có chiếu thư này thì dã tâm tạo phản của ông càng mạnh.

Lý Thăng trở về Phụng Thiên báo việc cho Đức Tông. Triều đình lo sợ, tính tới chuyện bỏ Phụng Thiên nếu như Hoài Quang làm phản. Ít lâu sau, Lý Hoài Quang bất ngờ dẫn quân tấn công Lý Kiến Huy và Dương Huệ Nguyên. Kiến Huy trốn được và Huệ Nguyện bị tử trận. Theo lời khuyên của một bộ tướng dưới quyền, Lý Hoài Quang quyết định gửi con là Lý Vị thay mặt mình đến Trường An yết kiến và tạ tội với nhà Đường. Đức Tông bằng lòng, sai trung sứ Khổng Sào Phụ, Đạm Thủ Doanh đến Hà Trung nhận hàng. Khi Khổng Sào Phụ đến, Lý Hoài Quang mặc đồ dân thường ra tiếp để tỏ sự hối hận, nhưng Sào Phụ đòi ông phải mặc lại chiến giáp như mọi khi. Sau đó Sào Phụ hỏi quân sĩ rằng: Trong quân của thái úy thì ai có thể thống lĩnh quân đội được. Bọn sĩ tốt giận, bèn giết hai sứ giả của triều đình mà không đợi lệnh của Hoài Quang, khiến cho ông buộc phải công khai chống lại triều đình lần nữa. Vua Đức Tông sai Hồn Giám làm Hà Trung tiết độ phó nguyên soái, cùng Lại Nguyên Quang đem quân đánh Hà Trung. Hồn Giám ban đầu phá được Đồng châu, nhưng bị tướng dưới quyền của ông là Từ Nguyên Quang chặn đứng tại Trường Xuân cung (Vị Nam hiện nay), không thể tiến lên thêm.

Giữa lúc đó, Tiết độ sứ Hà Đông. Lại vì con cháu Hoài Quang đã chết hết, chỉ còn phu nhân Vương thị, nên nhà vua sai cấp dưỡng cho Vương thị, cho xây trang viên ở Lễ châu để phu nhân thờ cúng ông. Năm 789, có lệnh cho cháu của Lý Hoài Quang, con trai Yến Bát Bát em gái ông được mang họ Lý, ban tên là Thừa Tự để làm hậu tự cho ông, phong chức Tả Vệ suất phủ trụ tào tham quân.

Đánh giá

Cựu Đường thư nhận xét trong liệt truyện về ông cùng Bộc Cố Hoài Ân là: :Hoài Ân cùng với Hoài Quang, đều có dũng lực, phụng sự vương gia, nhưng cuối cùng làm thần bất chung, cuối cùng làm phản, tội quả là lớn. Nhưng còn bọn Tân Vân Kinh, Lạc Phụng Tiên, Lư Kỉ, Bạch Chí Trinh đem lời nói sàm, khiến cho họ làm phản, làm quân thượng phải lo âu, cũng có thể cho là sàm tặc''.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là tiết độ sứ Sóc Phương dưới triều nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, Lý Hoài Quang là thuộc tướng dưới quyền đại tướng quân Quách Tử Nghi. Sau khi Quách Tử
**Lý hoài nam**, còn có các tên khác là **lý qua đèo**, **lý chiều chiều**, là một bài dân ca Bình Trị Thiên thuộc thể loại Lý - một làn điệu dân ca của Việt
**Lý Thạnh** (chữ Hán: 李晟, 727 – 793), tên tự là **Lương Khí**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Trần Quang Diệu** (chữ Hán: 陳光耀; 1746 – 1802) là một trong _Tây Sơn thất hổ tướng_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị
**Quang học** là một lĩnh vực vật lý học, chuyên nghiên cứu về ánh sáng, cụ thể la nguồn gốc và cách truyền ánh sáng, cách thức nó biến đổi cùng vời những hiện tượng
**Quảng Ngãi** là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ. Phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía tây và phía nam giáp tỉnh Gia Lai, phía đông giáp Biển Đông. ## Thời Chúa
**Lại Văn Quang** (chữ Hán: 赖文光, 1827 – 1868), dân tộc Khách Gia, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, từng tham gia khởi nghĩa Kim Điền vào buổi đầu của phong trào, được phong **Tuân
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Võ Nguyễn Hoài Linh** (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1969), thường được biết đến với nghệ danh **Hoài Linh**, là một nam diễn viên kiêm nghệ sĩ hài người Việt Nam. Ông là một
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Hậu Đường Trang Tông** (), tên húy là **Lý Tồn Úc** (), tiểu danh **Á Tử** (亞子), là một nhân vật chính trị và quân sự trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch
**Đại Quang Hiển** (, ? ~ ?) là vị thái tử cuối cùng của vương quốc Bột Hải, là con trai cả của quốc vương Đại Nhân Soạn. Ông đã lãnh đạo những người tị
nhỏ|phải|[[Tượng đài "_Khát Vọng Thống Nhất Non Sông_"]] nhỏ|phải|Tượng đài _Giao bưu [[Dốc Miếu_]] nhỏ|phải|Thành cổ Quảng Trị **Du lịch Quảng Trị** là tên gọi chỉ chung về các ngành, nghề kinh doanh và các
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Hoài Ân** là một huyện cũ thuộc tỉnh Bình Định cũ, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hoài Ân nằm ở phía bắc của tỉnh Bình Định, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**Trần Thị Cẩm Ly** (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1970), thường được biết đến với nghệ danh **Cẩm Ly**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô được biết đến qua việc trình
**Nguyễn Hữu Hoài** (sinh năm 1958) là một chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Chủ tịch (thứ 15) Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. ##
**Hoài Nam** (sinh 1942) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước năm 1975. Ông là tác giả một số ca khúc như "Ba tháng quân trường", "Chín tháng quân trường", "Tình bạn Quang Trung". ##
**Nguyễn Hoài Anh** (sinh ngày 2 tháng 5 năm 1977) là chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Trịnh Hoài Đức** ( 1765 - 1825), còn có tên là An (安), tự **Chỉ Sơn **, hiệu **Cấn Trai**; là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là
liên_kết=link=Special:FilePath/Tượng_anh_hùng_làng_Giá,Lý_Phục_Man_tướng_công_ở_Quán_giá_Yên_Sở.jpg|nhỏ|253x253px|Tượng Lý Phục Man tướng công, tại đền Quán Giá, Yên Sở, Hoài Đức, Hà nội. **Lý Phục Man** (李服蠻, ? - 547), không rõ họ tên thật. Ông là một danh tướng thời Lý
**Giả thuyết tâm lý xã hội**, viết tắt **PSH**, lập luận rằng ít nhất một số báo cáo UFO được giải thích tốt nhất bằng phương thức tâm lý hoặc xã hội. Nó thường trái
Một sự thể đồ hoạ của [[thông điệp Arecibo – nỗ lực đầu tiên của con người nhằm sử dụng sóng radio để thông báo sự hiện diện của mình tới các nền văn minh
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Đàm Thiệu Quang** () (1835 - 7 tháng 12 năm 1863) là một tướng lĩnh quan trọng của Thái Bình Thiên Quốc. Ông được phong là _Mộ Vương_ (慕王). Khi còn nhỏ, ông tham gia
**Lý Chính Kỷ** (chữ Hán: 李正己, bính âm: Li Zhengji, 733 - 781), còn dịch là **Lý Chánh Kỉ**, nguyên tên là **Lý Hoài Ngọc** (李懷玉), người Cao Ly, là Tiết độ sứ Bình Lư
**Lý Cương** (, 1083 - 1140), tên tự là **Bá Kỷ**, người Thiệu Vũ quân, tể tướng nhà Tống, lãnh tụ phái kháng Kim, anh hùng dân tộc Trung Quốc. Cùng với Nhạc Phi, Triệu
thumb|upright|[[Wilhelm Röntgen (1845–1923), người đầu tiên nhận giải Nobel Vật lý.]] Mặt sau huy chương giải Nobel vật lý **Giải Nobel Vật lý** là giải thưởng hàng năm do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Hoài Tập** (chữ Hán giản thể: 怀集县, âm Hán Việt: _Hoài Tập huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hoài Tập có diện
**Hoài niệm** là một cảm xúc liên quan đến sự khao khát những gì thuộc về quá khứ và thường là lý tưởng hóa những điều đó. Nostalgia là sự luyến tiếc quá khứ, lòng
**Hoài An** (), nguyên là **huyện Hoài An** (淮安县), là một khu (quận) của thành phố Hoài An, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Quận là quê hương của Chu Ân Lai. Thời xa xưa, cùng
**_Xuân quang xạ tiết_** (; ) là một bộ phim điện ảnh Hồng Kông thuộc thể loại tâm lý – lãng mạn – chính kịch ra mắt vào năm 1997 do Vương Gia Vệ làm
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lý và Triệu Việt Vương** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương và địa phương thời kỳ này trong lịch sử Việt Nam, kéo dài từ năm 541
**Lý Cảo** (; 351 – 417), tên tự **Huyền Thịnh** (玄盛), biệt danh là **Trường Sinh** (長生), là vị vua khai quốc của nước Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian cai
**Quảng Nam** là một tỉnh cũ thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc giáp thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng, phía nam giáp các tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, phía
**Lê Hoài Bắc** (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963) là một Giáo sư, Tiến sĩ ngành Công nghệ thông tin chuyên nghiên cứu về các lĩnh vực như máy học, trí tuệ nhân tạo,
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Ngô Quảng** (chữ Hán: 吴广, ? – 1601), người huyện Ông Nguyên, địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông , tướng lãnh nhà Minh. ## Khởi nghiệp Quảng lấy thân phận Võ sanh viên
**Cao Ly Đức Tông** (Hangeul: 고려 덕종, chữ Hán: 高麗 德宗, 9 tháng 6 năm 1016 – 31 tháng 10 năm 1034, trị vì 1031 – 1034) là quốc vương thứ 9 của vương triều
**Lý Thừa Càn** (chữ Hán: 李承乾; 619 - 5 tháng 1, năm 645), tự **Cao Minh** (高明), thụy hiệu là **Thường Sơn Mẫn vương** (恆山愍王), con trai trưởng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân
**Lý Nạp** (chữ Hán: 李納, 758 - 13 tháng 6 năm 792, tước hiệu **Lũng Tây vương** (隴西王), người gốc Cao Ly, là Tiết độ sứ Tri Thanh hay Bình Lư dưới thời nhà Đường
**Cao Ly Thần Tông** (Hangul: 고려 신종; chữ Hán: 高麗 神宗; 11 tháng 8 năm 1144 – 15 tháng 2 năm 1204, trị vì 1197 – 1204) là quốc vương thứ 20 của vương triều
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
là một tướng quân của Thái Bình Thiên Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo. Ông được biết đến với danh hiệu **Trung Vương** (忠王) lúc cuối đời. Danh hiệu này
thumb|Các bức ảnh tự cho là mô tả [[ma quỷ và các linh hồn đã từng phổ biến trong suốt thế kỷ XIX.]] **Siêu tâm lý học** (tiếng Anh: _parapsychology_) hay còn gọi là **cận
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây