✨Lý Tồn Úc
Hậu Đường Trang Tông (), tên húy là Lý Tồn Úc (), tiểu danh Á Tử (亞子), là một nhân vật chính trị và quân sự trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông kế vị cha làm vương nước Tấn (908-923) và sau trở thành hoàng đế của triều Hậu Đường (923–936) do ông sáng lập.
Lý Tồn Úc được đánh giá là một trong những lãnh đạo có tài quân sự nhất trong thời Ngũ Đại Thập Quốc. Khi ông kế vị tước Tấn vương, Tấn đang ở trong tình trạng suy yếu và không được xem như có khả năng gây ra một mối đe dọa quân sự cho kình địch của họ là triều Hậu Lương ở phía nam. Lý Tồn Úc thận trọng tái thiết nước Tấn, tiến hành nhiều cuộc chinh phục và kết minh với kết quả là đoạt được hầu hết lãnh thổ ở phía bắc Hoàng Hà, tức Hà Bắc, trước khi bắt đầu một chiến dịch trường kỳ chống lại Hậu Lương.
Lý Tồn Úc chinh phục Hậu Lương vào năm 923 và tự xưng là hoàng đế của triều Hậu Đường, tuyên bố đây là sự phục hồi triều Đường. Ông thiên đô đến đông đô trước đây của triều Đường là Lạc Dương. Tuy nhiên, giống như các triều đại khác của Ngũ Đại, Hậu Đường chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn ngủi. Bản thân Lý Tồn Úc qua đời ba năm sau khi sáng lập ra triều đại, ông bị sát hại trong cuộc nổi dậy của Quách Tùng Khiêm vào năm 926. Kế vị Lý Tồn Úc là Lý Tự Nguyên, nghĩa tử của Lý Khắc Dụng.
Thân thế
Lý Tồn Úc sinh ngày 22 tháng 10 năm Ất Tị (2 tháng 12 năm 885), tại Tấn Dương cung (tức Thái Nguyên), trong thời gian trị vì của Đường Chiêu Tông. Cha ông là Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng - một quân phiệt lớn mạnh vào cuối thời Đường. Mẹ ông là Tào thị - thiếp của Lý Khắc Dụng. Ông là con trai ruột sinh sớm nhất của Lý Khắc Dụng. tiết độ sứ Vương Hành Du, Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh, và Trấn Quốc tiết độ sứ Hàn Kiến, Lý Khắc Dụng sai Lý Tồn Úc đến hành tại nhằm thể hiện sự thần phục với hoàng đế. Khi thấy Lý Tồn Úc, Đường Chiêu Tông vỗ về ông và nói: "Nhi tương lai là rường cột của đất nước, hãy tận trung hiếu với nhà ta." Sau khi Lý Khắc Dụng đánh bại ba quân biệt, Lý Tồn Úc được trao cho chức vụ danh dự 'kiểm giáo tư không', Thấp châu thứ sử, và sau đó lần lượt giữ chức thứ sử của Phần châu và Tấn châu, song đều là diêu lĩnh, tức không đến địa phương nhậm chức mà chỉ là chức vụ danh dự. Ông được thuật lại là thông hiểu âm nhạc, và thường ca vũ trước mặt cha. Ông học "Xuân Thu" từ năm 13 tuổi, có được sự hiểu biết sơ đẳng. Khi lớn hơn, ông trở thành người giỏi cưỡi ngựa bắn cung. tiết độ sứ Chu Toàn Trung, ông chỉ ra rằng việc cha tỏ rõ vẻ đau khổ chỉ khiến cho quân dân lo lắng theo, và tốt hơn là ẩn mình và chờ thời cơ Chu Toàn Trung mắc sai lầm để tiến hành phản công, cho phép quân dân nghỉ ngơi trong một thời gian. Ông cũng nói với Lý Khắc Dụng rằng mình nhận thấy vấn đề khi các binh sĩ người Sa Đà cướp bóc của quần chúng, chỉ ra rằng nếu cha không kiềm chế hành vi này thì các binh sĩ sẽ phân tán và không thể tập hợp lại.
Năm 906, Chu Toàn Trung tiến hành chiến dịch chống lại một quân phiệt khác là Lô Long tiết độ sứ Lưu Nhân Cung, và bao vây con của Lưu Nhân Cung là Nghĩa Xương tiết độ sứ Lưu Thủ Văn tại thành Thương châu. Mặc dù trước đó phản lại Lý Khắc Dụng và trở thành quân phiệt độc lập, Lưu Nhân Cung quyết định cầu viện Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng ôm hận trong lòng nên từ chối cứu viện Lưu Nhân Cung, song Lý Tồn Úc nói rằng Chu Toàn Trung lúc này đã quá hùng mạnh và được các quân phiệt khác quy phục, Hà Đông và Lô Long là hai trong vài đối thủ còn lại của Chu Toàn Trung. Lý Tồn Úc chủ trương cứu viện Lưu Nhân Cung để ngăn việc Chu Toàn Trung khoách trương, người trong thiên hạ sẽ nhớ đến đức của Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng nghe theo ý của Lý Tồn Úc, đề nghị Lưu Nhân Cung phái quân đến để liên hiệp tiến công Chiêu Nghĩa của Hậu Lương để mở một mặt trận thứ hai, Lưu Nhân Cung chấp thuận. Sau đó, Chiêu Nghĩa tiết độ sứ Đinh Hội đầu hàng Lý Khắc Dụng, Chu Toàn Trung buộc phải từ bỏ chiến dịch chống lại Lưu Nhân Cung.
Năm 907, Chu Toàn Trung buộc người kế vị Đường Chiêu Tông là Đường Ai Đế phải trao lại hoàng vị cho ông ta, kết thúc triều Đường và khởi đầu triều Hậu Lương. Chu Toàn Trung tuyên bố là quân chủ của toàn bộ lãnh thổ Đường cũ, song Lý Khắc Dụng, Lý Mậu Trinh, Hoài Nam tiết độ sứ Dương Ác, Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến từ chối công nhận Chu Toàn Trung là hoàng đế, lãnh địa của họ trên trở thành các nước tương ứng là Tấn, Kỳ, Hoằng Nông và Tiền Thục. Sau đó, Chu Toàn Trung phái bộ tướng là Khang Hoài Trinh (康懷貞) đem 8 vạn quân đến đánh Lộ châu của Lý Tự Chiêu (李嗣昭)- người được Lý Khắc Dụng phong làm Chiêu Nghĩa tiết độ sứ. Khang Hoài Trinh cho xây thành đào hào quanh Lộ châu để cắt đứt liên lạc giữa bên ngoài với thành, quân cứu viện do Lý Khắc Dụng phái đến không thể giải vây cho Lộ châu. Đầu năm 908, Lý Khắc Dụng lâm bệnh nặng, và giao phó người thừa kế Lý Tồn Úc cho em là Nội ngoại Phiên Hán đô tri binh mã sứ-Chấn Vũ tiết độ sứ Lý Khắc Ninh, Giám quân Trường Thừa Nghiệp (張承業), Đại tướng Lý Tồn Chương (李存璋), Ngô Củng (吳珙), Chưởng thư ký Lô Chất (盧質). Lý Khắc Dụng nhiều lần nói với Lý Tồn Úc rằng cần lập tức cứu nguy Lý Tự Chiêu sau khi ông ta qua đời. Ngày Tân Mão tháng 1 năm Mậu Thìn (23 tháng 2 năm 908), Lý Khắc Dụng qua đời, Lý Tồn Úc kế nhiệm.
Thời kỳ là Tấn vương
Củng cố quyền lực ban đầu
Sau khi Lý Khắc Dụng qua đời, thoạt đầu Lý Khắc Ninh duy trì kỷ luật trong quân đội, không ai dám tạo ra xáo trộn. Trong khi đó, các quan lại và tướng sĩ không kính trọng Lý Tồn Úc- khi đó mới 22 tuổi, và họ liên tục bình phẩm. Lý Tồn Úc lo sợ nên đã giao quyền chỉ huy quân đội cho Lý Khắc Ninh, song Lý Khắc Ninh từ chối, nói rằng Tồn Úc mới là người kế nhiệm hợp pháp. Theo ý của Lý Khắc Ninh và Trương Thừa Nghiệp, Lý Tồn Úc xưng thừa tập Tấn vương, Hà Đông tiết độ sứ. tiết độ sứ, Lý Tồn Úc chấp thuận. (Lưu Thủ Quang cuối cùng bắt được Lưu Thủ Văn, kiểm soát Lô Long và Nghĩa Xương.) Lý Tồn Úc cũng tham gia tiến công Hậu Lương cùng với nước Kỳ của Lý Mậu Trinh sau khi tướng Lưu Tri Tuấn (劉知俊) của Hậu Lương quay sang quy phục Kỳ., và Nghĩa Vũ tiết độ sứ Vương Xử Trực, quyết định đoạt lấy lãnh địa của họ. Chu Toàn Trung hành quân lên phía bắc, giả bộ là nhằm giúp Nghĩa Vũ và Vũ Thuận phòng thủ trước khả năng bị Lưu Thủ Quang tiến công, song sau đó chiếm hai châu của Vũ Thuận và đồ sát binh sĩ đồn trú của Vũ Thuận tại địa phương. Trước các sự việc này, Vương Dung bị bất ngờ và quyết định cầu viện cả Lý Tồn Úc và Lưu Thủ Quang. Lưu Thủ Quang từ chối, song Lý Tồn Úc trước tiên sai Chu Đức Uy đi cứu viện, và sau đó đích thân dẫn quân. Tháng 1 ÂL 911, liên quân Tấn/Triệu/Nghĩa Vũ tiêu diệt quân Hậu Lương dưới quyền tướng Vương Cảnh Nhân tại Bá Hương (柏鄉, nay thuộc Hình Đài, Hà Bắc). Sau chiến thắng, Lý Tồn Úc quyết định tiến xa hơn, ông từng bao vây Ngụy châu (魏州, nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc), trị sở của Thiên Hùng (天雄)- một đạo quan trọng của Hậu Lương. Tuy nhiên, do lo sợ trước một đạo quân lớn dưới quyền tướng Hậu Lương Dương Sư Hậu (楊師厚) đang tiến đến, và càng lo ngại rằng Lưu Thủ Quang có thể sinh sự với mình, Lý Tồn Úc quyết định sớm từ bỏ bao vây Ngụy châu, kết thúc cuộc đối đầu lần này với Hậu Lương. Từ đó trở đi, Triệu và Nghĩa Vũ trở thành các thực thể độc lập trên thực tế, song liên minh khăng khít với Tấn, cả ba đều vẫn sử dụng niên hiệu Thiên Hựu (天佑) của triều Đường nhằm biểu thị sự chống đối với Hậu Lương.
Ngày Giáp Tý tháng 8 năm Tân Mùi (8 tháng 9 năm 911), Lưu Thủ Quang lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Yên. Lưu Thủ Quang phát động tiến công Nghĩa Vũ, Vương Xử Trực cầu viện Lý Tồn Úc và ông cử Chu Đức Uy đem quân đến điểm tập kết với Triệu và Nghĩa Vũ để cùng tiến công Yên. Chu Đức Uy tiến sâu vào lãnh thổ Yên, Lý Tồn Úc sau đó cũng tiến đến mặt trận. Trong lúc Lý Tồn Úc vắng mặt, Chu Toàn Trung tiến công Tấn và Triệu để phục thù, song bị các tướng Tấn là Lý Tồn Thẩm (李存審), Sử Kiến Đường (史建瑭) và Lý Tự Quăng (李嗣肱) đánh bại, và phải từ bỏ ý định cứu viện Lưu Thủ Quang. tiết độ sứ Chu Hữu Khiêm (朱友謙) từ chối quy phục Chu Hữu Khuê, và quay sang quy phục Tấn, cầu viện Lý Tồn Úc. Đến tháng 9 ÂL, Chu Hữu Khuê sai tướng Khang Hoài Trinh (康懷貞) tiến đánh Chu Hữu Khiêm, Lý Tồn Úc đến cứu viện Chu Hữu Khiêm và đẩy lui cuộc tiến công của Khang Hoài Trinh, buộc Khang Hoài Trinh phải triệt thoái. Chu Hữu Khiêm đến năm 913 lại quay sang quy phục Hậu Lương khi Chu Hữu Trinh lật đổ Chu Hữu Khuê,
Tháng 4 ÂL năm 913, Chu Đức Uy bao vây kinh thành U châu (幽州) của Yên. Đến tháng 10 ÂL, Lưu Thủ Quang tuyệt vọng và tuyên bố rằng nếu Lý Tồn Úc đích thân đến U châu thì sẽ đầu hàng. Ngày Giáp Thìn tháng 11 (6 tháng 12), Lý Tồn Úc cho Giám quân Trương Thừa Nghiệp quyền làm chủ quân phủ sự, tự mình đến U châu, ngày Tân Dậu cùng tháng (23 tháng 12 thì một mình cưỡi ngựa đến dưới thành U châu, song Lưu Thủ Quang lại không giữ lời mặc dù Lý Tồn Úc đảm bảo sẽ tha mạng nếu ông ta chịu đầu hàng. Ngày hôm sau, Lý Tồn Úc đốc chư quân 4 mặt đánh thành, U châu thất thủ. Lý Tồn Úc đưa Lưu Thủ Quang cùng gia đình, bao gồm cả Lưu Nhân Cung đến Thái Nguyên, và sau đó hành quyết. Lý Tồn Úc bổ nhiệm Chu Đức Uy là Lô Long tiết độ sứ và trao lãnh thổ cũ của Yên cho người này quản lý. Sau chiến thắng, Vương Dung và Vương Xử Trực sai sứ đến suy tôn Lý Tồn Úc tước Thượng thư lệnh (尚書令) — một tước hiệu mà không có thần dân Đường nào dám nhận vì Đường Thái Tông từng mang tước này. Lý Tồn Úc thoạt đầu từ chối, song sau đó chấp thuận tước hiệu, và cũng bắt đầu khai phủ lập hành đài giống như Đường Thái Tông khi còn là Tấn vương. và tiết độ sứ là Trương Quân (張筠). Binh lính Thiên Hùng lo ngại và tức giận về việc chia tách, do vậy họ tiến hành binh biến dưới quyền lãnh đạo của Trương Ngạn (張彥), bắt Hạ Đức Luân làm con tin. Khi Chu Trấn từ chối đáp ứng yêu cầu bãi bỏ việc chia tách của Trương Ngạn, Trương Ngạn buộc Hạ Đức Luân phải viết thư cho Lý Tồn Úc, đề nghị dâng Thiên Hùng đầu hàng Tấn. Lý Tồn Úc đến Thiên Hùng vào tháng 5 ÂL, giết Trương Ngạn hung bạo giảo trá, tự phong là Thiên Hùng tiết độ sứ và sáp nhập đạo này vào Tấn. Các cuộc tiến công của Hậu Lương dưới quyền chỉ huy của tướng Lưu Tầm (劉鄩) và Vương Đàn (王檀) thất bại dưới tay Lý Tồn Úc và các bộ tướng của ông. (Thiên Hùng sau đó trở thành một nguồn cung cấp lớn về nhân lực và vật lực cho các chiến dịch của Lý Tồn Úc.) Việc Thiên Hùng rơi vào tay Tấn khiến cho các đạo của Hậu Lương ở bờ bắc Hoàng Hà là Bảo Nghĩa, và Thuận Hóa bị cô lập, và đến 916, chúng cũng rơi vào tay Tấn, Hậu Lương chỉ còn lại thành Lê Dương ở bờ bắc Hoàng Hà.
Đến đông năm 917, Lý Tồn Úc cho rằng có triển vọng trong việc tiêu diệt Hậu Lương, do vậy ông tập hợp toàn bộ các tướng lĩnh chủ chốt, chuẩn bị vượt Hoàng Hà đang đóng bằng và tiến công kinh thành Đại Lương của Hậu Lương. Tuy nhiên, sau đó có vẻ như ông lại đổi ý, muốn trước tiên tiêu diệt đội quân chủ đạo của Hậu Lương đang nằm dưới quyền quản lý của Hạ Côi (賀瓌) và giành vài tháng để cướp phá lãnh thổ nằm ven Hoàng Hà của Hậu Lương.
Ngày Nhâm Tuất (23) tháng 12 năm Mậu Dần (27 tháng 1 năm 919), hai cánh quân tập hợp tại Hồ Liễu Pha, ngay phía nam của Hoàng Hà. Sang ngày hôm sau, tức ngày Quý Hợi (28 tháng 1 năm 919), mặc dù Chu Đức Uy đề nghị rằng nên khiến cho quân Hậu Lương hao mòn rồi mới giao chiến, tuy nhiên Lý Tồn Úc không nghe theo và hạ lệnh tiến hành một cuộc tiến công trực tiếp. Quân Tấn ban đầu giành được thắng lợi, song sau đó do nhầm lẫn về thông tin nên quân Tấn nghĩ rằng mình chiến bại rồi suy sụp. Trong hỗn loạn, đại tướng Chu Đức Uy bị giết, Lý Tự Nguyên mất liên lạc với Lý Tồn Úc, còn Lý Tùng Kha nằm trong một nhóm nhỏ binh sĩ tháp tùng Lý Tồn Úc. Lý Tự Nguyên cho rằng Lý Tồn Úc đã vượt sang bờ bắc Hoàng Hà nên quyết định vượt sông, trong khi Lý Tồn Úc vẫn phải vật lộn tìm đường. Lý Tùng Kha cùng các bộ tướng khác và các bộ tốt sau đó chiếm được một gò đất, cho phép Lý Tồn Úc có được một vị trí cao để tiến hành một cuộc phản công. Quân Tấn phản công thành công, giết được một lượng lớn binh sĩ Hậu Lương, dẫn tới kết quả tổng thể là hai bên đều chịu thiệt hại nặng nề, trận chiến kết thúc với kết quả thực chất là hòa. Theo mô tả, cả Tấn và Lương đều mất hai phần ba số binh sĩ vào ngày này, và đều bị suy yếu trong một thời gian.
Vào đầu mùa xuân năm 923, do e sợ rằng Lý Tồn Úc sẽ có hành động chống lại mình, đặc biệt là khi Lý Tồn Úc triệu Giám quân Trương Cư Hàn (張居翰) và Tiết độ phán quan Nhâm Hoàn (任圜) đến Ngụy châu- nơi đang đặt chính phủ lâm thời, Lý Kế Thao quyết định dâng An Nghĩa cho Hậu Lương. Vua Chu Trấn nhà Hậu Lương hết sức hài lòng, đổi tên An Nghĩa quân thành Khuông Nghĩa (匡義), cho Lý Kế Thao làm tiết độ sứ. của nước Tấn. nằm sâu trong lãnh thổ Hậu Lương không được phòng thủ tốt và có thể đoạt được. Lý Tồn Úc tin rằng đây là cơ hội để thay đổi cục diện chiến tranh, vào ngày Nhâm Dần (28) tháng 4 nhuận (15 tháng 6) sai tướng Lý Tự Nguyên đem 5000 tinh binh tập kích thủ phủ Vận châu (鄆州) của Thiên Bình. Lý Tự Nguyên một thời gian ngắn sau đã chiếm được Vận châu. ở biên giới, nhằm cắt đường tiếp tế từ lãnh thổ Hậu Lương cho Vận châu. Tuy nhiên, do Vương Ngạn Chương không quyết đoán trong các trận chiến với Lý Tồn Úc và bị ngoại thích gièm pha, Chu Trấn lại cho Đoàn Ngưng thay thế. Trong khi đó, Chu Trấn cũng cho phá đê Hoàng Hà tại Hoạt châu, khiến khu vực bị ngập lụt, mục đích là để cản trở quân Hậu Đường tiến sâu hơn nữa.. Lý Tồn Úc cử Lý Tự Nguyên thuyết phục Vương Ngạn Chương quy phục, nhưng Vương Ngạn Chương thực sự muốn chết, nói với Lý Tự Nguyên một cách vô lễ rằng: "Ngươi chẳng phải Mạt Cát Liệt đó sao?" (tên cũ của Lý Tự Nguyên). Lý Tồn Úc biết rằng Vương Ngạn Chương thà chết bất phục, bèn xử tử ông ta.
Cai quản Lạc Dương
[[Tập tin:五代后唐(繁).png|
]] Lý Tồn Úc định đô tại Lạc Dương, cử sứ đi thông báo về chiến thắng cho các nước Ngô và Tiền Thục, khiến cả hai nước này rất lo sợ.. Lý Tồn Úc cử Lý Tự Nguyên dẫn quân chống lại Khiết Đan, cùng Hoắc Ngạn Uy (khi ấy đã hàng Đường) làm phó. Tuy nhiên, lực lượng Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đã sớm rút lui, Lý Tồn Úc triệu Lý Tự Nguyên về kinh - và để lại Đoàn Ngưng - lúc này được ban tên Lý Thiệu Khâm - trấn giữ quan. Không lâu sau đó, ngày Ất Tị (7) tháng 3 năm Giáp Thân (tức là ngày 13 tháng 4 năm 924), lại nhận được tin Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ xâm phạm nhà Hậu Đường lần nữa, nhưng Lý Tự Nguyên được lệnh giữ quân ở Hưng châu để dò xét động tĩnh của Khiết Đan, trong khi Lý Tùng Kha và Lý Thiệu Bân chỉ huy kị binh trấn giữ quan ải chống lại Khiết Đan.
Mặc dù là một tướng tài, song Lý Tồn Úc không có tài trị quốc. Ông cùng với Lưu hoàng hậu tích trữ của cải, tạo gánh nặng cho nhân dân. Ông cũng xa lánh quân đội của mình trong khi lại tin tưởng bọn linh hoạn, tức các con hát và thái giám, như cho ba con hát làm thứ sử, trong khi những người theo ông chiến đấu hàng trăm trận đánh thì không được thưởng công như vậy. Năm bắt được tình hình còn có sứ giả Ngô cử sang Hậu Đường là Lô Bình (盧蘋), một quân phiệt cũ của Hậu Lương là Kinh Nam tiết độ sứ Cao Quý Hưng và người này trở nên độc lập với Hậu Đường sau khi Lý Tồn Úc qua đời,
Sau khi Lý Mậu Trinh qua đời vào năm 924, Lý Tồn Úc cho phép Lý Kế Nghiễm kế tập chức Phượng Tường tiết độ sứ, Tất cả các tiết độ sứ của Hậu Lương đều quy phục Lý Tồn Úc, và thực tế là ông đã hợp nhất hai nước (sau khi phát hiệu Lý Kế Thao vẫn lên kế hoạch để cai trị lãnh địa của mình một cách độc lập, Lý Tồn Úc quyết định hành quyết Lý Kế Thao). Trong lúc Quách Sùng Thao không có ở triều đình, Lý Tự Nguyên được phép đến Lạc Dương yết kiến Lý Tồn Úc..