✨Lý Mậu Trinh
Lý Mậu Trinh (, 856–17 tháng 5 năm 924), nguyên danh Tống Văn Thông (), tên tự Chính Thần (正臣), là người cai trị duy nhất của nước Kỳ thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lý Mậu Trinh trở thành một tiết độ sứ hùng mạnh trong thời gian Đường Chiêu Tông trị vì, sức mạnh của ông tập trung tại trị sở Phượng Tường. Tuy nhiên, sức mạnh của Lý Mậu Trinh đã dần suy yếu sau các thất bại trước các quân phiệt Vương Kiến và Chu Toàn Trung.
Sau khi Chu Toàn Trung soán vị triều Đường và lập ra triều Hậu Lương, Lý Mậu Trinh từ chối quy phục và tiếp tục dùng tước hiệu Kỳ vương do triều Đường ban cho, song lãnh thổ của ông bị thu hẹp sau các trận chiến. Sau khi triều Hậu Lương bị triều Hậu Đường thay thế, Lý Mậu Trinh xưng thần với Hậu Đường và được phong tước Tần vương vào năm 924. Sau đó, Lý Mậu Trinh qua đời, nhi tử là Lý Tòng Nghiễm kế tập chức Phượng Tường tiết độ sứ.
Thân thế
Tống Văn Thông sinh năm 856, tức dưới Triều đại của Đường Tuyên Tông. — song rõ ràng là không được sinh ra tại đó do gia đình ông trong nhiều thế hệ thuộc Bác Dã quân- ban đầu thuộc về Thành Đức tiết độ sứ, nhưng đội quân này chuyển đến đóng quân gần kinh thành Trường An của Đường từ khi thống lĩnh Lý Hoàn (李寰) từ chối đi theo Vương Đình Thấu nổi dậy chống triều đình. Tổ phụ của Tống Văn Thông tên là Tống Đạc (宋鐸); tổ mẫu của ông mang họ Trương; cha ông tên là Tống Đoan (宋端); mẹ ông mang họ Lô, về sau bà được phong là Yên quốc thái phu nhân. khi ông còn trẻ tuổi. Khi một thủ lĩnh nổi dậy lớn mạnh là Hoàng Sào chiếm Trường An vào khoảng tết năm 881 và buộc Đường Hy Tông phải chạy đến Thành Đô, Bác Dã quân đã chuyển đến lãnh địa và tuân theo lệnh của Phượng Tường tiết độ sứ Trịnh Điền. Hoàng Sào phái bộ tướng Thượng Nhượng đi đánh Trịnh Điền, song bị Trịnh Điền đẩy lui; trong trận chiến đó, Tống Văn Thông thể hiện được tài năng của mình, và do vậy được thăng làm chỉ huy sứ của Thần Sách quân. do hoạn quan Điền Lệnh Tư thất bại khi đương đầu với các tiết độ sứ Vương Trọng Vinh và Lý Khắc Dụng. Hai tiết độ sứ khác là Chu Mai và Lý Xương Phù quay sang chống lại Đường Hy Tông, tôn Lý Uân làm hoàng đế tại Trường An. Chu Mai sau đó phái bộ tướng Vương Hành Du đem quân tiến về Hưng Nguyên để bắt Đường Hy Tông, đánh bại tướng Dương Thịnh (楊晟). Đáp lại, Đường Hy Tông phái Tống Văn Thông, Lý Thiền (李鋋) và Trần Bội (陳佩) đến đóng quân tại Đại Đường phong để chống lại Vương Hành Du. Vương Hành Du không thể tiến quân, sau đó được hoạn quan Dương Phục Cung dụ hàng nên quay sang tiến đánh và giết chết Chu Mai; Lý Uân chạy đến lãnh địa của Vương Trọng Vinh song bị Vương Trọng Vinh giết chết. Để thưởng cho các công lao của Tống Văn Thông, Đường Hy Tông ban họ Lý của hoàng tộc Đường và ban tên Mậu Trinh cho ông, ngoài ra còn ban tự là Chính Thần. tiết độ sứ.. Đường Cao Tổ phong Lý Mậu Trinh làm Lũng Tây chiêu thảo sứ, dẫn quân đi đánh Lý Xương Phù. Cũng trong năm đó, dưới áp lực từ cuộc tiến công của Lý Mậu Trinh, Lũng châu thứ sử Tiết Tri Trù (薛知籌) giết Lý Xương Phù cùng gia tộc, dâng thành hàng Lý Mậu Trinh. Đường Hy Tông phong Lý Mậu Trinh là Phượng Tường tiết độ sứ, ban cho tước hiệu danh dự là Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (同中書門下平章事).
Dưới thời Đường Chiêu Tông trị vì
Phát triển thế lực
Năm 888, Đường Hy Tông qua đời, hoàng đệ là Lý Diệp được Dương Phục Cung ủng hộ lên làm hoàng đế, tức Đường Chiêu Tông. Đường Chiêu Tông ban một số danh dự cho các tiết độ sứ, trong đó Lý Mậu Trinh được ban tước hiệu "Thị trung".- nơi cháu nuôi của ông ta là Dương Thủ Lượng trấn thủ, và sau đó cùng các thân thích Long Kiếm tiết độ sứ Dương Thủ Trinh (楊守貞) và Kim Thượng tiết độ sứ Dương Thủ Trung (楊守忠) và Miên châu thứ sử Dương Thủ Hậu (楊守厚) nổi dậy chống triều đình.
Vào mùa xuân năm 892, Lý Mậu Trinh cùng huynh là Thiên Hùng tiết độ sứ Lý Mậu Trang (李茂莊) và các đồng minh là Tĩnh Nan tiết độ sứ Vương Hành Du, Trấn Quốc tiết độ sứ Hàn Kiến và Khuông Quốc tiết độ sứ Vương Hành Ước (王行約), thượng biểu xin được phát động một chiến dịch chống lại họ Dương, và thăng Lý Mậu Trinh là Sơn Nam Tây đạo chiêu thảo sứ để thống soái chiến dịch. Đường Chiêu Tông lo sợ rằng nếu Lý Mậu Trinh đánh bại được họ Dương thì triều đình sẽ khó có thể kiểm soát được ông, vì thế thoạt đầu hạ chiếu cho các bên thương lượng. Tuy nhiên, Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du đã kháng chỉ, tự tiến hành chiến dịch, Lý Mậu Trinh còn viết thư với lời lẽ bất kính cho tể tướng Đỗ Nhượng Năng và hoạn quan Tây Môn Quân Toại. Đường Chiêu Tông lo sợ rằng Lý Mậu Trinh sẽ tự ý đồ sát người dân Sơn Nam Tây đạo nên đã buộc phải lập Lý Mậu Trinh làm người thống lĩnh chiến dịch chống họ Dương. Sau đó, khi Đường Chiêu Tông giết chết Lý Thuận Tiết (李順節) và đồng minh của Lý Thuận Tiết là Giả Đức Thịnh (賈德晟), quân lính của Giả Đức Thịnh đã chạy đến Phượng Tường và gia nhập vào quân của Lý Mậu Trinh.
Vào mùa thu năm 892, Lý Mậu Trinh chiếm được Phượng châu, buộc thuộc hạ của Dương Phục Cung là Cảm Nghĩa tiết độ sứ Mãn Tồn (滿存) phải chạy trốn đến Hưng Nguyên. Lý Mậu Trinh sau đó cũng chiếm Hưng châu (興州) và Dương châu (洋州) (đều thuộc Hán Trung ngày nay), và cho thân thích của mình làm thứ sử các châu này. Không lâu sau đó, Lý Mậu Trinh chiếm được Hưng Nguyên, buộc Dương Phục Cung và thuộc hạ phải chạy đến Lãng châu. Lý Mậu Trinh cho dưỡng tử là Lý Kế Mật (李繼密) nắm quyền cai quản Hưng Nguyên. Trong khi đó, nhận thấy có cơ hội khuếch trương thế lực khi Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến và Đông Xuyên lưu hậu Cố Ngạn Huy có xung đột, Lý Mậu Trinh đã thượng tấu cho Đường Chiêu Tông để tiến cử Cố Ngạn Huy làm Đông Xuyên tiết độ sứ; Đường Chiêu Tông chấp thuận. Sau đó, Lý Mậu Trinh phái Lý Kế Mật đi cứu viện cho Cố Ngạn Huy, song sau khi Tây Xuyên quân đánh bại liên quân Đông Xuyên/Phượng Tường tại Lợi châu, Cố Ngạn Huy quay sang cầu hòa với Vương Kiến và cắt đứt quan hệ với Lý Mậu Trinh. tiết độ sứ Lý Khắc Dụng, họ bị quân của Hàn Kiến bắt và bị giải về Trường An để nhận án tử hình.
Tuy nhiên, cũng trong năm đó, một mâu thuẫn khác lại bùng nổ trong quan hệ giữa triều đình và liên minh Lý Mậu Trinh/Vương Hành Du/Hàn Kiến. Sau khi Hộ Quốc tiết độ sứ Vương Trọng Doanh qua đời, các binh sĩ quân Hộ Quốc ủng hộ cháu ruột và con nuôi của Vương Trọn Doanh là Vương Kha làm người kế nhiệm, song con của Vương Trọng Doanh là Bảo Nghĩa tiết độ sứ Vương Củng lại thèm muốn Hộ Quốc, vì thế Vương Củng thuyết phục Vương Hành Du, Lý Mậu Trinh và Hàn Kiến thượng tấu để mình nhận được Hộ Quốc và để lại Bảo Nghĩa cho Vương Kha. Đường Chiêu Tông từ chối, dẫn ra rằng Lý Khắc Dụng ủng hộ quyền kế nhiệm của Vương Kha (do Vương Kha là con rể của Lý Khắc Dụng). Ngày 4 tháng 6, Lý Mậu Trinh, Vương Hành Du và Hàn Kiến tiến quân vào kinh thành và giết chết Lý Hề cùng Vi Chiêu Độ. Sau đó, họ dự tính phế truất Đường Chiêu Tông và đưa Cát vương Lý Bảo lên thay thế. Tuy nhiên, vào thời điểm này, họ hay tin Lý Khắc Dụng huy động quân đội và đang tiến quân đến, vì thế ba người đã để lại 2.000 binh sĩ ở Trường An nhằm giám sát hoàng đế, mang số quân còn lại về lãnh địa của mình để chuẩn bị chống Lý Khắc Dụng. của Tĩnh Nan. Khi hay tin Lý Khắc Dụng chiến thắng ở trại này, Lý Mậu Trịnh trở nên sợ hãi, cho hành quyết Lý Kế Bằng và đưa thủ cấp của Lý Kế Bằng đến chỗ Đường Chiêu Tông để cầu xin được tha thứ, Lý Mậu Trinh cũng viết một lá thư cho Lý Khắc Dụng nhằm cầu hòa. Đường Chiêu Tông do đó đã hạ lệnh cho Lý Khắc Dụng tập trung vào tấn công Vương Hành Du. Đường Chiêu Tông sau lại tuyên bố một chiến dịch tổng tiến công Vương Hành Du, tước tất cả chức tước của Vương Hành Du. Mặc dù gửi sứ giả đến chỗ hoàng đế và Lý Khắc Dụng, song Lý Mậu Trinh vẫn phái quân cứu viện Vương Hành Du. Lý Khắc Dụng do đó xin Đường Chiêu Tông mở rộng chiến dịch, tiến công cả Lý Mậu Trịnh, Đường Chiêu Tông không chấp thuận song hạ chiếu lệnh cho Lý Mậu Trinh lui quân. Vào mùa đông năm 895, Vương Hành Du bỏ trị sở của mình và chạy trốn, sau đó bị thủ hạ giết chết.
Cũng trong năm đó, Đường Chiêu Tông thực hiện một nỗ lực khác để đoạt lấy Phượng Tường. Lý Mậu Trinh thượng biểu buộc tội Vương Kiến tiến công Đông Xuyên chống lại thánh chỉ. Đáp lại, Đường Chiêu Tông ban một chiếu chỉ giáng chức Vương Kiến làm Nam châu thứ sử, bổ nhiệm Lý Mậu Trinh làm Tây Xuyên tiết độ sứ thay thế Vương Kiến, bổ nhiệm Lý Tự Chu làm Phượng Tường tiết độ sứ thay thế Lý Mậu Trinh. Cả Vương Kiến và Lý Mậu Trinh đều từ chối tuân chỉ, Lý Mậu Trinh còn không để Lý Tự Chu đến Phượng Tường bằng cách bao vây vị thân vương này tại Phụng Thiên. Chỉ sau khi Hàn Kiến viết thư cho Lý Mậu Trinh, Lý Mậu Trinh mới bỏ việc bay vây Phụng Thiên và cho phép Lý Tự Chu trở về Hoa châu. Đường Chiêu Tông phái Chương Nghĩa tiết độ sứ Trương Liễn (張璉) thống soái quân lính tiến công Lý Mậu Trinh, song không thấy ghi chép về các hành động sau đó của Trương Liễn. Đường Chiêu Tông cũng bãi bỏ các chức tước của Lý Mậu Trinh, cũng như bản thân tên "Lý Mậu Trinh", gọi ông theo bản danh là Tống Văn Thông. (Sau khi Đường Chiêu Tông tuyên bố thảo phạt Lý Mậu Trinh, Lý Kế Đường bỏ Khuông Quốc và chạy về Phượng Tường, Hàn Kiến đoạt lấy Khuông Quốc.) tiết độ sứ Chu Toàn Trung cho tu sửa cung điện ở Lạc Dương và nhiều lần thỉnh cầu Đường Chiêu Tông thiên đô đến Lạc Dương, Lý Mậu Trinh và Hàn Kiến quyết định cho binh sĩ của mình cùng tu sửa cung điện và các công thự ở Trường An để xin Đường Chiêu Tông tha thứ. Đáp lại, Đường Chiêu Tông ban chiếu chỉ chấm dứt chiến dịch tiến công Lý Mậu Trinh vào mùa xuân năm 898 và phục hồi tên "Lý Mậu Trinh" và chức Phượng Tường tiết độ sứ, cùng năm lại bổ nhiệm Lý Mậu Trinh kiêm chức Chương Nghĩa tiết độ sứ. Sau đó, Đường Chiêu Tông trở về Trường An.
Vào mùa hè năm 902, Lý Mậu Trinh cố gắng lấy lại thế chủ động khi tập hợp quân lính và ra khỏi thành, đến bao vây Chu Toàn Trung tại Quắc huyện, song bị đánh bại và mất hàng nghìn lính. Sau khi phái thủ hạ là Khổng Kình (孔勍) chiếm Phượng châu, Chu Toàn Trung đến Phượng Tường, lập năm doanh trại và bao vây phủ thành. Một thân thích của Lý Mậu Trinh là Lý Mậu Huân (李茂勳) khi đó đang là Bảo Đại tiết độ sứ đã cố gắng cứu viện cho Phượng Tường, song bị quân Tuyên Vũ đánh bại và buộc phải triệt thoái. Trong khi đó, Lý Kế Mật buộc phải đầu hàng Vương Kiến, khiến Sơn Nam Tây đạo và Vũ Định trở thành lãnh địa của Vương Kiến.
Thời Đường Ai Đế trị vì
Năm 906, Lý Mậu Trinh phái Lý Kế Khản đến Tây Xuyên làm con tin. Vương Kiến bổ nhiệm Lý Kế Khản làm Bành châu thứ sử. tiết độ sứ Dương Ác, và Vương Kiến từ chối thừa nhận Hậu Lương, song sau đó Vương Kiến nhận thấy triều Đường không thể phục hưng nên xưng đế và lập ra nước Tiền Thục. khỏi quân Hậu Lương, Lý Mậu Trinh không thể gửi bất cứ hỗ trợ nào., quân ba nước đều triệt thoái. tiết độ sứ Hồ Kính Chương (胡敬璋) của Kỳ cố gắng tiến công Thượng Bình quan của Hậu Lương, song cũng bị Lưu Tri Tuấn đẩy lui.
Sau khi Dương Ác bị các thuộc hạ là Trương Hạo và Từ Ôn sát hại vào năm 908, Dương Long Diễn lên kế vị và phái thuộc quan là Vạn Toàn Cảm (萬全感) đến Tấn và Kỳ để thông báo việc này. Sau đó, Lý Mậu Trinh "thừa chế" ban cho Dương Long Diễn chức Thượng thư lệnh và tước hiệu Ngô vương (trước đó Dương Ác và Dương Hành Mật đã có tước hiệu này). của Hậu Lương, mục đích là để dùng đất đó phong cho Lưu Tri Tuấn và làm nơi cung cấp ngựa và các gia súc khác cho quân Kỳ. Khi Sóc Phương tiết độ sứ Hàn Tốn (韓遜) cầu viện triều đình Hậu Lương, Hậu Lương Thái Tổ phái Khang Hoài Trinh đi đánh Tĩnh Nan nhằm buộc Lưu Tri Tuấn phải dừng tiến công. Khang Hoài Trinh nhanh chóng chiếm được ba trong số các quận của Tĩnh Nan, song khi Lưu Tri Tuấn quay lại thì Khang rơi vào bẫy và chịu tổn hại nặng nề. Sau trận chiến, mặc dù lãnh thổ nhỏ hẹp song Lý Mậu Trinh vẫn bổ nhiệm Lưu Tri Tuấn làm Chương Nghĩa tiết độ sứ. tiết độ sứ Lý Nhân Phúc (李仁福) của Hậu Lương. Sau khi Hậu Lương Thái Tổ phái Lý Ngộ (李遇) và Lưu Oản (劉綰) đến cứu viện Lý Nhân Phúc, quân Kỳ và quân Tấn triệt thoái. Vài năm sau đó, giữa Tiền Thục và Kỳ tiếp tục nổ ra các trận chiến, Tiền Thục liên tục chiến thắng và dần thôn tính lãnh thổ của Kỳ.
Năm 914, Lý Kế Huy bị nhi tử là Lý Ngạn Lỗ (李彥魯) hạ độc giết chết, Lý Ngạn Lỗ tự xưng là Tĩnh Nan lưu hậu. Sau đó, năm 915, dưỡng tử của Lý Kế Huy là Lý Bảo Hành (李保衡) lại giết chết Lý Ngạn Lỗ và dâng Tĩnh Nan cho Hậu Lương. Hoàng đế Hậu Lương đương thời là Chu Hữu Trinh sau đó đã điều chuyển Lý Bảo Hành đi nơi khác và bổ nhiệm bộ tướng Hoắc Ngạn Uy làm Tĩnh Nan tiết độ sứ; Kỳ sau đó không thể đoạt lại Tĩnh Nan, một nỗ lực của Lưu Tri Tuấn nhằm tái chiếm Tĩnh Nan thoạt đầu đã có kết quả là bế tắc. Sau đó, khi tướng Tiền Thục là Vương Tông Hàn (王宗翰) tiến công Tần châu, Lý Kế Sùng đầu hàng; Lưu Tri Tuấn hay tin Thiên Hùng thất thủ và gia đình bị đưa đến Thành Đô nên quyết định bỏ cuộc bao vây Bân châu và chạy sang Tiền Thục. Trong khi đó, Nghĩa Thăng tiết độ sứ, Lý Ngạn Thao (李彥韜) thấy quốc gia nay suy yếu nên quay sang đầu hàng Hậu Lương.
Năm 920, Tiền Thục lại tiến công Kỳ và thoạt đầu giành được chiến thắng. Tuy nhiên, khi lương thực cạn kiệt, quân Tiền Thục cũng buộc phải triệt thoái.
Quy phục Hậu Đường
Năm 923, Lý Tồn Úc lập ra triều Hậu Đường và trở thành Hậu Đường Trang Tông, cuối cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn trước Hậu Lương. Khi hay tin, Lý Mậu Trinh phái sứ giả đến chúc hạ Hậu Đường Trang Tông, song trong thư lại dùng lời lẽ ngạo mạn, tự xưng là "quý phụ". Tuy nhiên, sau khi Hậu Đường Trang Tông tiến vào Lạc Dương và lập thành này làm kinh đô, Lý Mậu Trinh lo sợ rằng Kỳ sẽ là mục tiêu tiếp theo của Hậu Đường. Vào mùa xuân năm 924, Lý Mậu Trinh đã phái nhi tử là Lý Kế Nghiễm dâng đồ triều cống cho Hậu Đường Trang Tông và thượng biểu xưng thần với Hậu Đường. Hậu Đường Trang Tông nồng nhiệt tiếp đón Lý Kế Nghiễm và ban cho chức Trung thư lệnh, trong khi tôn vinh Lý Mậu Trinh bằng việc chỉ sử dụng từ Kế vương trong chiếu chỉ. Sau khi Lý Kế Nghiễm trở về Phượng Tường thì thuật lại cho Lý Mậu Trinh những gì tai nghe mắt thấy, rằng quân đội Hậu Đường rất hùng mạnh. Lý Mậu Trinh lo sợ và thượng biểu xin được làm một hạ thần bình thường, hay nói theo cách khác là xin Hậu Đường Trang Tông không bỏ qua tên húy trong các chiếu chỉ, Hậu Đường Trang Tông từ chối. Hậu Đường Trang Tông sau đó cải phong Lý Mậu Trinh là Tần vương, vẫn không gọi ông bằng tên húy và không yêu cầu ông phải cúi đầu trước sứ giả triều đình phái đến để tuyên bố việc sách phong.
Cũng vào năm 924, Lý Mậu Trinh qua đời. Trong thỉnh cầu cuối cùng với Hậu Đường Trang Tông, Lý Mậu Trinh xin triều đình hãy cho Lý Kế Nghiễm tiếp tục cai quản Phượng Tường. Hậu Đường Trang Tông sau đó đã chuẩn thuận cho Lý Kế Nghiễm làm Phượng Tường tiết độ sứ.
- Con trai không rõ tên
- bốn con gái ;Con nuôi
- Lý Kế Trăn (李繼臻)
- Lý Kế Mật (李繼密), nguyên danh Vương Vạn Hoằng (王萬弘), đầu hàng Vương Kiến năm 902 và đổi tên Vương Vạn Hoằng, sau đó tự sát
- Lý Kế Bằng (李繼鵬), nguyên danh Diêm Khuê (閻珪), bị Lý Mậu Trinh xử tử năm 895
- Lý Kế Ngung (李繼顒), bị Vương Tông Khản (王宗侃) giết năm 895
- Lý Kế Ung (李繼雍)
- Lý Kế Huy (李繼徽), nguyên danh Dương Sùng Bản (楊崇本), đầu hàng Chu Toàn Trung năm 901 và đổi tên Dương Sùng Bản, sau lại quy phục Lý Mậu Trinh vào năm 904 và đổi tên Lý Kế Huy, bị con là Lý Ngạn Lỗ hạ độc sát hại vào năm 914
- Lý Kế Chiêu (李繼昭), nguyên danh Phù Đạo Chiêu (符道昭), đầu hàng Chu Toàn Trung năm 902
- Lý Kế Đường (李繼瑭)
- Lý Kế Ninh (李繼寧), bị Vương Kiến bắt năm 897
- Lý Kế Phổ (李繼溥), đầu hàng Vương Kiến năm 897
- Lý Kế Quân (李繼筠), bị Lý Mậu Trinh xử tử năm 903
- Lý Kế Trung (李繼忠)
- Lý Kế Liêu (李繼鐐), bị Chu Toàn Trung bắt năm 902
- Lý Kế Khâm (李繼欽)
- Lý Kế Trực (李繼直), bị Hàn Tốn (韓遜) giết năm 909
- Lý Kế Quỳ (李繼虁)
- Lý Kế Ngập (李繼岌), nguyên danh Tang Hoằng Chí (桑弘志), đầu hàng Vương Kiến năm 916 và đổi tên Tang Hoằng Chí
- Lý Kế Trắc (李繼陟)
Tổng diện tích của hai hình vuông có cạnh là hai cạnh vuông của tam giác vuông (_a_ và _b_) bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền (_c_). Trong