✨Ngô Quảng (nhà Minh)

Ngô Quảng (nhà Minh)

Ngô Quảng (chữ Hán: 吴广, ? – 1601), người huyện Ông Nguyên, địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông , tướng lãnh nhà Minh.

Khởi nghiệp

Quảng lấy thân phận Võ sanh viên để tòng quân, lập nhiều chiến công, từng làm đến Phúc Kiến nam lộ tham tướng, có tội nên chịu bãi chức về nhà. Gặp lúc người Dao ở Sầm Khê nổi dậy, tổng đốc Trần Đại Khoa phát hịch cho Quảng theo tổng binh Đồng Nguyên Trấn đánh dẹp. Tướng sĩ hơi lùi, Quảng bèn chém 1 tên lính làm gương, rồi đại phá nghĩa quân. Luận công, Quảng được khôi phục quan chức cũ.

Tham gia Bình Bá

Năm Vạn Lịch thứ 25 (1597), Quảng lấy thân phận Phó tổng binh theo Lưu Đinh (con trai của danh tướng Lưu Hiển) chống quân Nhật ở Triều Tiên, lĩnh thủy quân cùng Trần Lân làm thế ỷ giốc, lập nhiều chiến công. Vừa ban sư thì triều đình phát đại quân đánh dẹp thổ ty Dương Ứng Long ở Bá Châu (nay là địa cấp thị Tuân Nghĩa, Quý Châu) – sử cũ gọi là chiến dịch Bình Bá (1600), cất nhắc Quảng làm Tổng binh quan, đem 1 cánh quân ra Hợp Giang. Phó tướng Tào Hi Bân đem 1 cánh quân ra Vĩnh Ninh, chịu sự chỉ huy của Quảng. Quảng đồn trú Nhị Lang bá (máng, nay thuộc huyện cấp thị Xích Thủy), chiêu hàng rầm rộ. Kiêu tướng nghĩa quân là Quách Thông Tự đón đánh, bị quan quân tập kích, đẩy lui. Thổ quan 3 trại Đào Hồng, An Thôn, La Thôn đều ra hàng, bộ thuộc của họ theo về có vài vạn, Quảng chọn người khỏe mạnh tòng quân. Thông Tự chẹn Xuyên Nhai độn (vựa, nay là Thiên Vượng lý, trấn Áp Khê, khu Bá Châu), Quảng đốc liên quân Thổ – Hán đánh phá hắn ta.

Lưu Đinh, Mã Khổng Anh đã vào Bá Châu, mà Quảng vẫn còn dừng chân ở Nhị Lang, vì thế tổng đốc Lý Hóa Long thúc giục ông. Quảng bàn chia 4 đường tiến đánh Nhai Môn quan (nay thuộc huyện cấp thị Nhân Hoài), riêng sai bọn Vĩnh Ninh nữ thổ quan Xa Thế Tục đốc 2000 binh dân tộc thiểu số, chẹn các nơi yếu hại như Tang Mộc ổ (nay thuộc khu Hồng Hoa Cương), để bảo vệ đường vận lương. Chư tướng phá liền vài độn, tiến đến đóng trại ở Mẫu Trư đường (đê, nay là Mẫu Trư Đường câu (ngòi), thuộc huyện Tuy Dương). Dương Ứng Long sợ, lệnh cho Quách Thông Tự đem hết binh ở ngoài quan ra kháng cự. Quảng phục 500 pháo thủ ở gò nam bên ngoài Ma Thưởng ổ (chưa rõ ở đâu), rồi sai bì tướng Triệu Ứng Khoa khiêu chiến. Ổ này bị kẹp giữa hai tòa núi, rất hiểm trở, Thông Tự hoành sóc xông lên, Ứng Khoa vờ chạy. Thông Tự rời ổ đuổi theo, gặp phục binh nổi lên, vội quay lại thì ngựa trúng pháo nên khuỵu xuống. Thông Tự sắp nhảy lên con ngựa khác, phục binh họp nhau đâm chết hắn ta, khiến nghĩa quân tan chạy. Quan quân đuổi theo, nghĩa quân đều hàng. Quan quân thừa thắng tấn công Nhai Môn, đường nhỏ chỉ vừa một con ngựa đi qua, hơn vạn nghĩa quân xuất quan kháng cự. Tào Hi Bân treo thưởng ngàn vàng, binh sĩ men theo vách núi, tranh nhau tiến lên, đuổi đến cửa quan thứ 4; trên cửa quan, nam nữ đều khóc. Nghĩa quân tự giết tướng lãnh là La Tiến Ân, kéo nhau hơn vạn người ra hàng. Cửa quan thứ nhất vẫn còn kháng cự, Quảng nhân đêm tối tiến gấp, chiếm cửa ấy; dân chúng trong quan tranh nhau hiến rượu thịt.

Lưu Đinh, Mã Khổng Anh đã vào quan, Lý Ứng Tường, Trần Lân vẫn còn ở ngoài. Quảng hợp quân với Hi Bân, liên tiếp giao chiến với nghĩa quân ở Hồng Oản Thủy, Thổ Nhai, Phân Thủy quan (đều chưa rõ ở đâu), đều thắng lợi, bèn tiến đến đóng trại ở Thủy Ngưu đường (đê, nay là trấn Sa Loan, khu Bá Châu). Dương Ứng Long cả sợ, biết Quảng đơn độc vào sâu, tính kế tập kích ông, bèn sai người trá hàng. Quảng dò biết được, giữ vững lũy để đợi. Ứng Long đưa 3 vạn nghĩa quân xông vào đại doanh, chư tướng đều liều chết chiến đấu; gặp lúc viện quân đến, nghĩa quân bèn lui.

Quảng cùng các cánh quan quân áp sát Hải Long độn (căn cứ của Dương Ứng Long, nay là di chỉ Hải Long đồn, trên núi Long Nham, thôn Bạch Sa, trấn Cao Bình, khu Hối Xuyên). Nghĩa quân lệnh cho đàn bà vờ xin hàng, khóc lóc trên độn, lại nói dối Dương Ứng Long đã uống thuốc độc mà chết. Quảng ban đầu tin là thật, sau đó phát hiện là dối trá, bèn vội thiêu cửa quan thứ 2, chiếm 3 tòa núi (có lẽ là 3 gò đất), cắt đứt đường tiếp tế của nghĩa quân, khiến nghĩa quân ngày càng túng quẫn. Quảng cùng Trần Lân vòng ra sau độn mà trèo lên, Ứng Long vội tự thiêu chết. Quan quân bắt được con của Ứng Long là Dương Triều Đống, kéo thây của Ứng Long ra khỏi ngọn lửa.

Hậu sự

Vào lúc kết thúc chiến dịch, Quảng trúng tên độc, kêu thất thanh, ngã nhào rồi tỉnh lại, sau đó giữ bản quan đi trấn Tứ Xuyên. Sang năm (1601), Quảng mất.

Ban đầu Quảng dừng chân ở Nhị Lang bá, có người vu cáo ông nhận đút lót nên buông lỏng cho giặc, vì thế triều đình giáng chiếu trích ông, sung làm sự quan. Sau khi luận công, Quảng được tặng Đô đốc đồng tri, Thế ấm thiên hộ.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô Quảng** (chữ Hán: 吴广, ? – 1601), người huyện Ông Nguyên, địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông , tướng lãnh nhà Minh. ## Khởi nghiệp Quảng lấy thân phận Võ sanh viên
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Hiếu Dực Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝翼章皇后; 19 tháng 6, 1397 - 16 tháng 1, 1462), thông gọi **Tuyên Miếu Ngô Hiền phi** (宣廟吳賢妃), là phi tần của Minh Tuyên Tông Tuyên Đức Đế,
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Trần Diễn** (chữ Hán: 陈演, ? – 1644), tự **Phát Thánh**, hiệu **Tán Hoàng**, người Tỉnh Nghiên , một trong những Nội các thủ phụ thời Sùng Trinh cuối đời Minh. ## Tiểu sử Ông
right|thumb|300x300px|Văn Uyên các trong Cố Cung, Bắc Kinh. Thời Minh Nội các đóng tại đây. Văn Uyên các nằm sau lưng Văn Hoa Điện, phía Đông Ngọ Môn. **Nội các nhà Minh** do Minh Thành
**Kim Thanh** (chữ Hán: 金声, ? – 1645), tự **Chánh Hy**, người huyện Hưu Ninh, phủ Huy Châu , quan viên cuối đời Minh, kháng Thanh thất bại mà chết. ## Phục vụ nhà Minh
**Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty** (chữ Hán: 交趾等處承宣布政使司), gọi tắt là **Giao Chỉ Bố chính sứ** (交趾布政司), là cơ quan hành chính cấp tỉnh mà nhà Minh thiết lập tại
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Ứng Thiên phủ** (phồn thể: **應天府**; giản thể: **应天府**), là một phủ được thành lập thời nhà Minh. Ban đầu nơi này là kinh sư của nhà Minh, về sau được trở thành thủ đô
Quy mô nền kinh tế Trung Quốc vào thời nhà Minh là lớn nhất thế giới đương thời. Nhà Minh cùng với nhà Hán và nhà Đường, được xem như ba kỷ nguyên hoàng kim
**Uông Tuấn** (chữ Hán: 汪俊, ? - ?) tự **Úc Chi**, người huyện Dặc Dương, phủ Quảng Tín, Thừa Tuyên Bố chánh sứ tư Giang Tây , quan viên nhà Minh. Ông là thành viên
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王源 hay 原 , ? - ?), tự **Khải Trạch**, người Long Nham, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử cũ xếp vào nhóm
**Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, ? – 1402), tự **Thúc Dương**, người châu Thường Thục, lộ Bình Giang, hành tỉnh Giang Nam , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Việt từ nhỏ hiếu học.
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Ngô Quảng** (吴广, ?-208 TCN), tự Thúc (叔), là thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối thời nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người trợ giúp đắc lực cho Trần Thắng châm
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Ngô Quang Hải** hay **Ngô Vũ Quang Hải** (sinh năm 1967 tại Hải Phòng) là nam diễn viên, đạo diễn điện ảnh người Việt Nam. Ông được biết đến khi sản xuất các phim _Chuyện
**Ngô Quang Đoan** (1872 - 1945) tự là **Ch­ương Phủ** (章甫), hiệu là **T­ượng Phong** là một nhà thơ và một nhà chí sĩ chống Pháp. Ông còn là con cả nhà văn thân yêu
**Trần Sâm** (chữ Hán: 陈琛, 1477 – 1545), tên tự là **Tư Hiến**, hiệu là **Tử Phong**, người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu , là quan viên, học giả, ẩn sĩ đời Minh trong
**Hàn Chính** (chữ Hán: 韩政, ? – 1378), người Tuy Châu , tướng lãnh đầu đời Minh. ## Sự nghiệp Cuối đời Nguyên, Chánh từng là thủ lĩnh nghĩa quân, sau đó đưa lực lượng
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Nam Minh** (, 1644–1662) là một Triều đại Trung Quốc được chính dòng dõi con cháu và các quan lại trung thành của nhà Minh thành lập ở phía Nam Trung Quốc ngay sau khi
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Quảng Châu** (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: _Guǎngzhōu_, Wade-Giles: _Kuang-chou_, việt phanh: _Gwong2zau1_, Yale: _Gwóngjaū_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền
**Lê Quang Bí** (1506 - ?) là quan nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam và là nhà thơ Việt Nam. Ông người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã
**Ngô Tam Quế** (tiếng Hán: 吳三桂, bính âm: _Wú Sānguì_, Wade-Giles: _Wu San-kuei_; tự là **Trường Bạch** 長白 hay **Trường Bá** 長伯; 1612 – 2 tháng 10 năm 1678), là Tổng binh cuối triều Minh,
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
**Thích Kế Quang** (12 tháng 11, 1528 - 17 tháng 1, 1588 ), tự **Nguyên Kính** (元敬), tên hiệu là **Nam Đường** (南塘) và **Mạnh Chư** (孟諸), thụy hiệu **Võ Nghị** (武毅), người tỉnh Sơn
**Ngô Quang Tảo** (sinh 1932- Từ Trần ngày 01/3/2020) là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân,Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Trưởng đoàn chuyên gia 9902 của Việt Nam tại
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Hiếu Mục Kỷ Thái hậu** (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi **Kỷ Thục phi** (紀淑妃) hoặc **Hiếu Mục Hoàng hậu** (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và
**Minh Hy Tông** (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.