✨Minh Tư Tông

Minh Tư Tông

Minh Tư Tông (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức Sùng Trinh Đế (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng là vị hoàng đế người Hán cuối cùng cai trị toàn bộ Trung Quốc trước khi triều đình rơi vào tay nhà Thanh của người Mãn Châu. Các sử gia Trung Hoa còn dùng miếu hiệu Nghị Tông (毅宗), hoặc Uy Tông (威宗) để gọi ông. Ông được nhà Nam Minh truy thụy là Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Võ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế (紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝). Nhà Thanh tiến vào Trung nguyên truy đặt miếu hiệu cho ông là Hoài Tông Trang Liệt Hoàng đế, thụy hiệu là Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thê Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝).

Thời trẻ

Chu Do Kiểm là con thứ năm của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là em cùng cha khác mẹ của Minh Hy Tông Chu Do Hiệu. Ông sinh ngày 24 tháng 12 âm lịch năm Vạn Lịch thứ 38, theo dương lịch là đầu năm 1611. Mẹ ông là Lưu thị không được vua cha sủng ái. Năm 1614 khi ông lên 4 tuổi thì mẹ ông qua đời, ông được giao cho Lý Trang Phi (còn được gọi là Đông Lý, để phân biệt với Lý Tuyển Thị của Hy Tông) dạy dỗ.

Năm 1622 lúc 11 tuổi, Chu Do Kiểm được phong làm Tín vương, ở cung Huân Cần. Lúc này ông mới biết ngôi mộ mẹ mình chôn ở Sơn Tây.

Năm 1627, vua anh Minh Hy Tông lâm bệnh nặng. Hy Tông chết sớm lại có rất ít con trai nhưng cũng đều qua đời khi còn rất nhỏ, vì vậy lúc lâm chung đã di chiếu cho Chu Do Kiểm lên kế vị.

Hai ngày sau khi vua anh qua đời, Chu Do Kiểm lên nối ngôi ở điện Trung Cực, tức là Minh Tư Tông. Ông đổi niên hiệu là Sùng Trinh.

Đăng cơ đế vị

Nhà Minh đã sa sút từ thời ông nội Sùng Trinh là Minh Thần Tông, được tin bị truy đuổi, biết không thoát nên thắt cổ tự vẫn.

Sau khi Ngụy Trung Hiền chết, Sùng Trinh sai người đến bắt Khách thị, bắt giết hết gia quyến họ Ngụy và họ Khách. Những người cùng cánh với Ngụy, Khách cũng bị xử tội như Ngụy Lương Phụ, Thôi Trình Tú, Lưu Chí Viễn, Ngụy Quảng Vi, Lý Thực, Cố Bình Nghiêm… Ngụy Trung Hiền đã chết vẫn bị mang phanh thây xé xác vào đầu năm 1628.

Đồng thời, Sùng Trinh còn hạ lệnh dỡ bỏ hết các từ đường do Ngụy Trung Hiền xây dựng ở các địa phương và khôi phục lại danh dự cho đảng Đông Lâm đối địch với họ Ngụy và bị hại trước đây. Việc thanh trừng nhanh chóng phe Ngụy, Khách của vua Sùng Trinh khiến nhiều người khâm phục.

Chính sách đối nội

thumb|left|Minh Tư Tông Sùng Trinh hoàng đế Chu Do Kiểm Để khắc phục những tệ nạn xảy ra từ các đời vua trước, Minh Tư Tông có ý định thực hiện cải cách, quy hoạch nhân sự mới, đốc thúc bộ máy vận hành. Ông chăm chú việc triều chính, thức khuya dậy sớm, tự mình xem văn bản vì sợ các quan lại sao nhãng không tâu báo hết. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách của Sùng Trinh không mang lại hiệu quả.

Để xây dựng đội ngũ nhân sự mới, Sùng Trinh không tự mình lựa chọn bổ nhiệm đại thần, cũng không nghe theo sự tiến cử của mọi người mà dùng cách bốc thăm: Ông tập hợp bá quan vào cung Càn Thanh, sai ghi họ tên từng người bỏ vào trong bình vàng, rồi vái lạy trời xanh phù hộ và dùng đũa gắp thăm. Kết quả lần đó Tiền Long Tích, Lý Tiêu, Lại Tông Đạo, Dương Cảnh Thìn, Chu Đạo Đăng, Lưu Hồng Huấn trúng thăm và được cất nhắc.

Tuy nhiên, những người này đều vốn có quan hệ rất sâu với cánh Ngụy Trung Hiền trước đây nên ý tưởng rất khác với Minh Tư Tông. Điều đó khiến Tư Tông không bằng lòng và bãi chức họ, rồi bổ nhiệm những người trong đảng Đông Lâm đối nghịch Đông Xưởng như Hàn Khoáng, Thành Cơ Mệnh, Chu Diên Nho, Hà Như Sủng, Tiền Tượng Khôn... Nhưng sang năm 1630 những người này đều bị bãi chức nốt vì vụ án Viên Sùng Hoán.

Tuy vừa thanh trừng hoạn quan Ngụy Trung Hiền nhưng chỉ 1 năm sau Sùng Trinh lại lập tức trọng dụng lực lượng hoạn quan khác trong triều mà không có bố trí nhân sự xứng đáng.

Việc sử dụng hoạn quan ngày càng có quy mô lớn. Tới tháng 4 năm 1631, Sùng Trinh khôi phục lại chế độ giám quân do các thái giám đảm nhiệm, ở biên giới gọi là giám thị, trong các trấn nội địa thì gọi là giám quân. Các thái giám này có quyền hành rất lớn, được tham gia việc quân và được Sùng Trinh sử dụng làm mật thám trong quân đội.

Không chỉ khống chế quân sự, hoạn quan còn được trọng dụng vào việc kinh tế của đất nước. Hoạn quan Trương Di Hiến được giám sát việc chi thu của Bộ Công và Bộ Hộ, có đặc quyền ngang với Tổng đốc, được xây riêng nha môn gọi là Tổng lý Hộ Công, đứng trên 2 vị Thượng thư 2 bộ này. Thuế thu ngày càng cao khiến nhân dân cơ cực, nhiều nơi bị đói kém, phải tha hương, ăn thịt lẫn nhau. Quan lại địa phương không có cách cứu tế lại tăng cường trưng thu thuế khiến dân chúng không chịu nổi, nhiều nơi nổi dậy chống triều đình.

Sùng Trinh đứng trước tình hình đó không ra biện pháp khắc phục. Trước những đề nghị tiếp tế cho những nơi bị đói, Sùng Trinh thẳng thừng từ chối.

Sau đó ông lại ra lệnh bỏ các dịch trạm, mà người làm việc ở đây vốn là những sĩ tốt lương bổng thấp và nông dân nghèo. Các trạm dịch bị giải thể khiến hàng vạn dịch tốt không còn đường sống, cũng nổi dậy chống triều đình khiến phong trào nông dân ngày càng mạnh.

Để trấn áp các cuộc khởi nghĩa, Sùng Trinh cần có tiền, do đó lại ra lệnh tăng thêm thuế. Tháng 12 năm 1629, lệnh tăng thêm mỗi mẫu 3 li, ban đầu công bố chỉ thực hiện trong 1 năm nhưng sau đó lại cho thực hiện dài hạn, thu được thêm 2,8 triệu lượng. Sang năm 1639 tăng thuế lần thứ 2 thu được 16,7 triệu lượng, tới năm 1640 lại tăng lần thứ 3 thu được 16,9 triệu lượng.

Từ khi lên ngôi, Minh Tư Tông luôn tự nhận mình nghèo nhưng trong kho tàng riêng (nội noa) của ông luôn chứa số lượng lớn vàng bạc châu báu. Sự tham lam của Sùng Trinh và các vương hầu được các sử gia đánh giá là "xem tiền tài hơn mạng sống".

Nội ưu ngoại hoạn

thumb|Một bát [[sứ thời Sùng Trinh nhà Minh]] Khi Sùng Trinh tại vị phải đối phó với 2 nguy cơ lớn về quân sự: sự uy hiếp của chính quyền Hậu Kim của người Nữ Chân nổi lên từ thời Minh Thần Tông và các cuộc nổi dậy của nông dân như Bạch Thủy, Vương Nhị, Cao Nghênh Tường, Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung… Nguyên do các cuộc khởi nghĩa nông dân vì đời sống khổ cực, mất mùa đói kém.

Ở phía Tây Bắc, Sùng Trinh theo đề nghị của Vương Tượng Cán thường dùng biện pháp vỗ về, lấy của cải tặng các bộ tộc này để giữ yên vùng biên giới.

Đối với các cuộc khởi binh của nông dân, Sùng Trinh theo kế của Dương Hạc, sai đi phát chẩn lương thực và phủ dụ. Tại vùng Thiểm Tây, Dương Hạc phủ dụ được Thần Nhất Khôi. Nhưng các lực lượng nổi dậy sau đó vẫn không dẹp yên được hoàn toàn mà vẫn chống đối triều đình.

Vì vậy sang năm 1630 Sùng Trinh thấy biện pháp này không hiệu quả bèn cách chức Dương Hạc, sai Hồng Thừa Trù làm tổng đốc quân sự Tam Biên, thống lĩnh các tướng tại đây. Sau chiến thắng ở Tây Hào, Hồng Thừa Trù cơ bản dẹp yên được vùng Thiểm Tây.

Để chống lại quân Hậu Kim đang nổi lên ở phía đông bắc, Sùng Trinh cho trọng dụng lại Viên Sùng Hoán, vốn là đại tướng bị Hy Tông xử phạt. Viên Sùng Hoán được phong làm Thượng thư Bộ Binh, tổng đốc Liêu Đông trấn thủ Sơn Hải quan đánh bại nhiều cuộc tấn công của quân Hậu Kim. Nỗ Nhĩ Cáp Xích không thể tiến vào trung nguyên được, bị trúng đạn của Viên Sùng Hoán, không lâu sau qua đời, con là Hoàng Thái Cực lên thay, tiếp tục cuộc nam chinh.

Trong lúc đó, những người cùng cánh cũ của Ngụy Trung Hiền vu oan Sùng Hoán có ý định làm phản hàng địch khiến Sùng Trinh nghi ngờ.

Năm 1630, Hoàng Thái Cực sau nhiều lần tấn công không được, phải tránh Viên Sùng Hoán, mang 10 vạn quân không đi qua Cẩm châu, Ninh Viễn và Sơn Hải quan mà vòng qua đường Mông Cổ tiến vào Trường Thành, đánh chiếm Tuân Hóa. Viên Sùng Hoán nghe tin vội mang quân về bảo vệ kinh thành, kịp thời tới Thông châu trước quân Hậu Kim, đánh lui Hậu Kim ở Quảng Cừ Môn.

Hoàng Thái Cực thấy Viên Sùng Hoán bất ngờ xuất hiện ở Thông châu rất kinh ngạc, bèn dùng kế phản gián, phao tin Sùng Hoán thả lỏng khiến quân Hậu Kim mới tiến được tới Bắc Kinh và mình đã hẹn với Viên Sùng Hoán kết liên minh dưới chân thành. Hoàng Thái Cực cố ý nói lộ việc này ra ngoài, rồi thả cho một tù binh là hoạn quan họ Dương trốn thoát về. Viên hoạn quan trở về liền báo cho Sùng Trinh biết. Hoàng Thái Cực còn cho viết văn bản mật ước rải ra ngoài thành Bắc Kinh.

Sùng Trinh nghe tin cho là thật, bèn hạ lệnh cho Cẩm Y vệ bắt ngay Viên Sùng Hoán giam vào ngục. Sau đó Viên Sùng Hoán bị xử lăng trì tại cầu Cam Thạch. Những người can ngăn đều bị giáng chức. Cái chết của Viên Sùng Hoán khiến cho quân Hậu Kim từ lúc đó ngày càng chiếm thế chủ động chiến trường.

Năm 1637, Hùng Văn Xán được phong làm Thượng thư Bộ Binh kiêm Hữu phó đô ngự sử, tổng đốc Hà Nam, Sơn Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên đi trấn áp cuộc khởi nghĩa của Trương Hiến Trung. Hùng Văn Xán có 10 vạn quân, khí thế mạnh mẽ, bao vây nhiều lớp khiến Trương Hiến Trung không chống nổi, phải dâng thư về triều xin đầu hàng.

Sùng Trinh chấp nhận cho Trương Hiến Trung đầu hàng. Hiến Trung mang vài vạn hàng binh đóng ở Bạch Sa châu, cách Cốc Thành (Hồ Bắc) 15 dặm dựng nhà làm ruộng. Nhiều đại thần nghi ngờ Hiến Trung không thực lòng đầu hàng, đề nghị nên phân tán quân sĩ của Hiến Trung đi, nhưng Sùng Trinh không tán thành.

Sang năm 1639, Trương Hiến Trung lại khởi binh phản lại triều đình. Sùng Trinh không nhận lỗi do mình thả lỏng Hiến Trung mà quy lỗi cho Hùng Văn Xán tiếp nhận cho Hiến Trung đầu hàng, sai bắt Văn Xán bỏ ngục rồi sau đó tử hình.

Sau khi Viên Sùng Hoán bị giết, quân Hậu Kim ngày càng chiếm ưu thế. Năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi tên nước là Thanh, liên tiếp uy hiếp biên giới nhà Minh.

Năm 1642, Sùng Trinh sai Hồng Thừa Trù mang 10 vạn quân ra giúp Tổ Đại Thọ chống quân Thanh. Hai tướng ngăn chặn đánh lui được Hoàng Thái Cực. Nhưng sau đó Sùng Trinh lại nghe theo Phương Nhược Kỳ cho rằng quân Thanh yếu ớt phải xuất kích tiêu diệt, vì vậy bắt các tướng phải tổ chức tiến công quân Thanh, không được phòng thủ. Kết quả quân Minh đại bại, bị tiêu diệt hoàn toàn, cả Tổ Đại Thọ và Hồng Thừa Trù đều bị bắt. Sùng Trinh ban đầu cho rằng Hồng Thừa Trù tử trận vì nước nên sai làm nghi lễ, sau mới biết tin Thừa Trù hàng Thanh mới hủy bỏ việc này.

Từ đó nhà Minh không còn đủ thực lực chống quân Thanh phía đông bắc nữa. Hoàng Thái Cực mang quân bao vây Ninh Viễn. Lo lắng về tình hình đông bắc, Minh Tư Tông quyết định nghị hòa với Hoàng Thái Cực. Ông nghe theo Dương Tự Xương bí mật sai Trần Tân Giáp đi thương lượng và lệnh cho Tân Giáp giữ kín nội dung nghị hòa vì sợ mất uy thế của "thiên triều" đối với ngoại tộc, không muốn công khai với mọi người về việc triều Minh phải đứng ngang hàng với Mãn Thanh trong hòa đàm.

Trần Tân Giáp sai Mã Thiệu Du sang trại Hoàng Thái Cực thương lượng. Bàn bạc xong, Mã Thiệu Du viết nội dung vào văn bản trình Trần Tân Giáp. Tân Giáp xem xong để trên kỷ. Gia nhân tưởng là văn bản đê điều hàng ngày bèn mang đi sao chép thành nhiều bản. Chỉ qua mấy hôm, nội dung nghị hòa đã loan khắp kinh thành, Trần Tân Giáp bị chỉ trích dữ dội.

Sùng Trinh nghe tin bèn bắt Trần Tân Giáp trách cứ về tội dám tự nghị hòa với Hậu Kim. Tân Giáp không nhận tội vì làm theo lệnh của vua. Sùng Trinh nhất định hạ lệnh xử tử Tân Giáp để bịt đầu mối, bất chấp nhiều lời can ngăn.

Thượng thư Bộ Lại là Tạ Thăng biết chân tướng sự việc bèn nói cho mọi người biết việc nghị hòa do bản ý của Sùng Trinh. Sùng Trinh vì mất thể diện bèn cách chức Tạ Thăng.

Nước mất thân vong

thumb| Hoàng đế Sùng Trinh giết một trong những cô con gái của mình ', được miêu tả bởi Martino Martini trong De Bello Tartarico Historia '' (1655) Trong lúc đó tình hình triều Minh ngày càng nghiêm trọng. Phía đông bắc quân Thanh uy hiếp nặng nề, bên trong quân khởi nghĩa Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung ngày càng lớn mạnh. Lý Tự Thành nêu cao khẩu hiệu "chia ruộng đất cho dân cày, miễn nộp lương thực", "không đi phu" khiến dân chúng nhiều nơi hưởng ứng. Năm 1641, Lý Tự Thành đánh chiếm Lạc Dương, phát triển lực lượng lên hàng triệu người, còn Trương Hiến Trung cũng đánh chiếm Hán Dương, Vũ Xương, Nhạc châu, Trường Sa, Bảo Khánh….

Tháng 8 năm 1643, Minh Tư Tông cử Tôn Truyền Đình làm Binh bộ Thượng thư mang 10 vạn quân ra dẹp quân nổi dậy. Tôn Truyền Đình đánh từ Đồng Quan, còn Tả Lương Ngọc mang quân Hà Nam, Tứ Xuyên cùng tiến. Lý Tự Thành tập trung quân tinh nhuệ ở Hồ Quảng tới Hà Nam, dụ Tôn Truyền Đình vào sâu và đánh cho đại bại. Truyền Đình hi sinh, năm ấy ông 50 tuổi. Nhiều trấn đầu hàng Lý Tự Thành.

Đầu năm 1644, Sấm vương Lý Tự Thành tự xưng là hoàng đế, đặt tên nước là Đại Thuận và chia quân làm 2 đường tiến đánh Bắc Kinh. Lý Tự Thành viết thư cho Sùng Trinh, ra tối hậu thư tới ngày 15 tháng 3 phải đầu hàng; đồng thời viết thông báo đi các nơi công bố tội trạng của vua quan nhà Minh.

Sùng Trinh muốn điều động Ngô Tam Quế về cứu viện, nhưng Tam Quế bị mắc ở biên cương không thể quay về, do đó Sùng Trinh thôi ý định triệu hồi Tam Quế. Ông sai thái giám tới đôn đốc phòng thủ Sơn Hải Quan, Đức châu, Tô châu, Thiên Tân, Lâm Thanh…

Nhưng tin thất trận liên tiếp báo về. Sang tháng 3 âm lịch, Lý Tự Thành bắt sống Tấn vương Chu Cầu Quế, còn Tuần phủ Sái Mậu Đức tự vẫn; Trương Hiến Trung vây hãm Trùng Khánh, giết Đoan vương Chu Thường Hạo và Tuần phủ Trần Sĩ Kỳ. Các trấn Ninh Vũ, Đại Đồng, Bảo Định, Tuyên Phủ đều thất thủ. Tướng Đỗ Huấn từ phủ Đại Danh ra nghênh đón đầu hàng Lý Tự Thành. Minh Tư Tông không tin, cho rằng Đỗ Huấn tử tiết vì nước nên phong cho con em Huấn làm quan.

Lý Kiến Thái nghe tin Tổng đốc Đại Danh là Khương Tương hàng Đại Thuận, bèn viết biểu khẩn cấp gửi về triều, đề nghị Sùng Trinh đưa thái tử Chu Tử Lãng chạy xuống phía nam vì thế quân Đại Thuận rất mạnh không thể chống nổi. Trong triều có những ý kiến tán đồng, nhưng Minh Tư Tông nhất định không nghe theo. Ông họp đại thần và nói rằng: :Không những trẫm là hoàng đế mất nước mà các khanh đều là bề tôi mất nước

Minh Tư Tông còn ra chiếu tự kể tội mình đã mắc sai lầm để ổn định lòng người. Trước tình hình nguy cấp, ông đề nghị các vương hầu đóng góp tiền bạc, lương thảo. Nhiều đại thần đề nghị ông xuất tiền của trong kho (nội noa) ra để cứu vãn tình hình, nhưng Sùng Trinh nhất định không chịu, rồi nhỏ lệ khóc và nói rằng kho đã hết sạch.

Trong kinh thành nháo nhác, tới ngày 16 Sùng Trinh mới biết tin quân địch đã đến. Trưa ngày 16, quân Đại Thuận hoàn tất việc bao vây thành và bắt đầu tấn công. Quân Đại Thuận đánh vào Lư Cầu Kiều và Bình Tắc Môn, Chương Nghĩa Môn. Ba đại doanh đóng bên ngoài bảo vệ cổng thành đều tan vỡ, quân trang và kho thuốc súng đều lọt vào tay quân Đại Thuận.

Quân Minh bị thiếu ăn nhiều ngày đã oán giận, nên lúc đó nhiều người đào ngũ hoặc ngồi yên không chiến đấu. Hoạn quan Đỗ Huấn đã hàng Lý Tự Thành gửi thư dụ hàng nhưng Sùng Trinh không tiếp nhận thư.

Ngày 18 tháng 3, quân Đại Thuận đã đến rất gần, các hoạn quan mà ông trọng dụng lũ lượt ra hàng. Tào Hóa Thuần, Vương Tương Nghiêu, Vương Đức Hóa mang 300 tiểu thái giám ra quy phục Lý Tự Thành. Thành ngoài thất thủ. Một thái giám khác cũng theo lệnh Lý Tự Thành vào thành đề nghị ông nhường ngôi, nhưng ông không chấp nhận. thumb|upright|left|Vị trí mà hoàng đế Sùng Trinh được cho là đã [[treo cổ tự tử.]] Đêm 18, Minh Tư Tông viết lệnh giao việc đốc quân phò tá thái tử cho Chu Thuần Thần, nhưng khi gọi các thái giám mang lệnh đi thì không còn ai.

Sùng Trinh biết cơ nghiệp đã mất, bèn gọi Chu hoàng hậu tới bảo bà rằng "Đại cục đã hỏng, nàng là mẫu nghi thiên hạ, theo lý phải tuẫn quốc". Chu hoàng hậu xúc động trả lời "Thiếp hầu hạ bệ hạ 18 năm, điều gì cũng tuân lệnh, nay chết cùng thiên tử xã tắc, có hận chi đâu!", rồi vào nội thất treo cổ tự vẫn. Sau đó ông bảo Viên quý phi treo cổ tự vẫn, nhưng sợi dây đứt và Viên phi rơi xuống đất. Sùng Trinh liền tự tay chém vào vai Viên phi nhưng vết thương chỉ khiến nàng ngất đi.

Sau đó ông giao thái tử Chu Từ Lãng, Định vương Chu Từ Quýnh và Vĩnh vương Chu Từ Chiếu cho các ngoại thích họ Điền, họ Chu trốn đi và dặn phải mai danh ẩn tích, nếu có cơ hội phải báo thù. Còn lại 2 công chúa Trường Bình và Chiêu Nhân, Sùng Trinh lấy tay áo che và vung kiếm chém, Trường Bình đã lớn, giơ tay lên đỡ, bị chém đứt cánh tay phải lăn ra bất tỉnh. Còn công chúa Chiêu Nhân ít tuổi, bị Sùng Trinh chém chết.

Minh Tư Tông cải trang thành dân thường, dẫn theo hơn 10 nội giám bỏ trốn. Canh 3 đêm đó ra cửa Đông Hoa, tới cửa Tế Bắc thì sợ đến phía nam sẽ bị cản lại, bèn men theo ngõ hẹp vòng ra Tiền Môn, không ra được phải vòng qua An Định môn. Loanh quanh vẫn không ra được bèn trở về cung, đích thân gióng chuông định bàn bạc với các quan, nhưng không còn ai tới ngoài người thái giám trung thành Vương Thừa Ân.

Sáng ngày 19 tháng 3 (tức ngày 25 tháng 4 dương lịch), quân Đại Thuận được các thái giám mở cổng thành ồ ạt tiến vào thành. Sùng Trinh bèn cùng Vương Thừa Ân bỏ chạy, trèo lên núi Vạn Thọ (tức Môi Sơn, nay là Cảnh Sơn), bước tới dưới một gốc cây hòe ở đình Thọ Hoàng, từng là nơi kiểm duyệt nội thao của hoàng đế. Ông cởi bỏ hoàng bào, giận dữ viết lên vạt áo:

Sau đó Minh Tư Tông đi chân đất mặc quần áo nhẹ, xõa tóc che mặt, đứng đối diện với Vương Thừa Ân và treo cổ tự vẫn. Năm đó ông 33 tuổi, tính theo tuổi ta là 35 tuổi. Vương Thừa Ân tận trung treo cổ tự vẫn theo ông ở gốc cây cạnh đó, trên 40 người nữa cũng tự vẫn theo vua.

An táng

Quân dân Bắc Kinh nghênh đón vua Đại Thuận Lý Tự Thành. Lý Tự Thành tịch thu được từ kho riêng (nội noa) của Sùng Trinh, kiểm được còn 37 triệu lạng bạc, 1,5 triệu lạng vàng chứ không phải đã hết như Sùng Trinh từng tuyên bố.

Lý Tự Thành treo thưởng 1 vạn lạng bạc cho ai tìm được Sùng Trinh. Ngày 21 tháng 3, người ta phát hiện ra vua Sùng Trinh chết đã cứng tại Môi Sơn.

Ngày hôm sau, quân Đại Thuận mang quan tài, dựng thi thể Sùng Trinh và Chu hoàng hậu ra ngoài đặt ở cửa Đông Hoa để bêu trước dân chúng. Các quan lại nhà Minh không ai dám tới nhìn, chỉ có Tương Thành bá Lý Quốc Trinh bôi bùn lên mặt đến trước xác Sùng Trinh mà khóc. Lý Quốc Trinh bị quân Đại Thuận bắt đến nộp cho Lý Tự Thành. Tự Thành dụ hàng, Quốc Trinh ra 3 điều kiện:

Không được phá hoại các lăng tẩm vua nhà Minh

Dùng nghi lễ Thiên tử mai táng Sùng Trinh

Không làm hại Thái tử và Vĩnh vương, Định vương

Lý Tự Thành chấp nhận cả ba điều kiện. Nhưng lúc đó lăng mộ Sùng Trinh vẫn chưa khởi công, vì vậy Lý Tự Thành quyết định mang Sùng Trinh và Chu Hoàng hậu chôn vào khu mộ của Điền quý phi, người vợ thứ của ông đã qua đời năm 1642, táng ở huyện Xương Bình.

Sau này, khi nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên, để lấy lòng người Hán, đã xây dựng kiến trúc trên phần mộ Điền quý phi, nâng cấp lên thành quy mô to lớn, đặt tên là Tư lăng. Ngoài ra, để biểu dương lòng trung nghĩa của Vương Thừa Ân (quan thái giám hầu cận đã tự vẫn cùng Sùng Trinh), hoàng đế Thuận Trị đã cho mai táng ông ngay tại lối vào Tư lăng để ông được mãi mãi yên nghỉ bên chủ nhân.

Thụy hiệu, miếu hiệu

Ngày 6 tháng 5 âm lịch năm Sùng Trinh thứ 17 (Thanh Thuận Trị nguyên niên), Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn lấy cựu thần nhà Minh Lý Minh Duệ làm Lễ bộ Thị lang, phụ trách việc tế táng cho Đại hành Hoàng đế, ban đầu đặt thụy hiệu là Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thể Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝), miếu hiệu là Hoài Tông (懷宗) .

Hoằng Quang Đế nhà Nam Minh đặt thụy hiệu là Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Vũ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế (紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝), miếu hiệu là Tư Tông (思宗). Tháng 2 Hoằng Quang nguyên niên, cải miếu hiệu thành Nghị Tông (毅宗) . Đường vương Chu Duật Kiện nối ngôi, lại cải miếu hiệu thành Uy Tông (威宗).

Nhà Thanh đặt miếu hiệu cho Sùng Trinh là Hoài Tông, nhưng theo lễ thì triều vua sau đối với vua triều trước không đặt miếu hiệu mà chỉ đặt thụy hiệu, nên vào tháng 11 năm Thuận Trị thứ 16 (1659) đã thay nội dung bia của lăng tẩm, chỉ đặt thụy hiệu cho ông là Trang Liệt Mẫn Hoàng đế (莊烈愍皇帝)

  • Hai chị em Vương phi (王妃) (?-1644)
  • Lận Uyển Ngọc (藺婉玉) , cháu gái thái giám Lận Khanh (藺卿) , nguyên là nhạc nữ , Minh triều diệt vong thì xuất gia làm đạo cô.

Cát Kiếm Hùng cho rằng Minh Tư Tông là người ngang bướng cố chấp, chỉ muốn làm theo ý mình. Mặt khác, tuy cho rằng Minh Tư Tông nói câu "Trẫm không phải là vua mất nước" là muốn che giấu lỗi lầm của mình, nhưng Cát Kiếm Hùng cũng đồng tình với ý kiến cho rằng ông là vị vua không gặp may, vì những yếu tố làm dấy lên phong trào nông dân phản kháng triều đình đã hình thành từ những đời vua trước.

An Tác Chương nhìn nhận Minh Tư Tông chỉ là vị vua tầm thường, hôn quân bất tài, tính tình hay thay đổi; tự cao tự đại không chịu nhìn nhận lỗi lầm của mình, làm mất lòng tin của quân dân cả nước.

Hồ Hán Sinh cho rằng Sùng Trinh gặp tình hình khó khăn đã vội vã và nôn nóng muốn thay đổi cục diện, dẫn tới hàng loạt quyết sách sai lầm, trong đó có vấn đề nhân sự; lại thêm lòng dạ hẹp hòi, thích xu nịnh, đa nghi, ghét lời nói thẳng… làm cho tham vọng trị quốc an dân, chấn hưng nhà Minh của ông hoàn toàn sụp đổ.

Nhận xét chung, Minh Tư Tông là một ông vua có lòng chấn hưng đất nước sau nhiều năm triều chính rối ren, nhưng tiếc là sự mục nát của triều đình tích lũy qua nhiều triều vua trước đã trở nên quá nghiêm trọng. Bản thân ông không đủ tài năng để xoay chuyển tình thế đã quá xấu, "muốn làm việc thì khí số đã hết". Dù làm vua chăm chỉ, quan tâm đến nhân dân nhưng cuối cùng ông lại chịu cảnh mất nước, giống như Hán Hiến Đế, Đường Chiêu Tông, Kim Ai Tông trước kia.

Tội nghiệp thay cho Sùng Trinh, dù cố gắng chống đỡ nhưng vẫn không cứu vãn được cơ nghiệp nhà Minh, lại bị gian thần hãm hại, trung lương chẳng còn mấy người, nên lâm phải cảnh nước mất nhà tan, phải tự vẫn trong uất ức, gián tiếp chứng kiến nhà Minh diệt vong cùng với mình. Sau khi ông chết, dẫu Nam Minh có trụ được hơn 18 năm, vẫn phải tiêu vong.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Viên Quý phi** (chữ Hán: 袁贵妃, 1616 - 1654), là phi tần của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Khi
**Minh Hy Tông** (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Hiếu Thuần Hoàng hậu Lưu thị** (孝纯皇后刘氏, 1588 - 1615), không rõ tên thật, nguyên là phi tần của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là mẹ đẻ của Minh Tư Tông Chu Do
**Hiếu Hòa Hoàng hậu Vương thị** (孝和皇后王氏; 1582 - 1619), không rõ tên thật, nguyên là thứ thiếp của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là mẹ ruột của Minh Hy Tông Chu Do
**Tư Lăng** (chữ Hán: 思陵) là nơi an táng Minh Tư Tông (hay **Sùng Trinh**) – Hoàng đế thứ 17 và cuối cùng của nhà Minh cùng hai người vợ ông là Chu Hoàng hậu
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Minh Đại Tông** (chữ Hán: 明代宗; 21 tháng 9 năm 1428 – 23 tháng 3 năm 1457), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Trong 7 năm trị
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Hiếu Mục Kỷ Thái hậu** (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi **Kỷ Thục phi** (紀淑妃) hoặc **Hiếu Mục Hoàng hậu** (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Minh Nhân Tông** (chữ Hán: 明仁宗, 16 tháng 8, 1378 - 29 tháng 5, 1425), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ cai trị trong một
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Hiếu Dực Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝翼章皇后; 19 tháng 6, 1397 - 16 tháng 1, 1462), thông gọi **Tuyên Miếu Ngô Hiền phi** (宣廟吳賢妃), là phi tần của Minh Tuyên Tông Tuyên Đức Đế,
**Hiếu Ý Trang Hoàng hậu Lý thị** (孝懿莊皇后李氏; 1530 - 1558), nguyên là **Lý Vương phi** (李王妃), là Chính thất Vương phi của Minh Mục Tông Chu Tái Kỵ khi ông còn là _Dụ vương_
**Hiếu Khác hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恪皇后; 1510 - 1554), họ Đỗ (杜氏), còn gọi là **Đỗ Khang phi** (杜康妃), nguyên là phi tần dưới triều Minh Thế Tông Gia Tĩnh hoàng đế. Bà chưa
**Hiếu Nghị Tương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝毅襄皇后; 1605 - 1646), Hoàng hậu duy nhất của Minh Thiệu Tông Long Vũ Đế, Hoàng đế thứ hai nhà Nam Minh. Bà cũng là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Hiếu Nguyên Trinh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝元貞皇后, 1580 - 1613), hay còn gọi **Cung Tĩnh Thái tử phi** (恭靖太子妃), là nguyên phối của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc khi ông còn là Hoàng
**Hiếu Kính Thái hoàng thái hậu Lý thị** (chữ Hán: 孝敬太皇太后李氏, ? - 1597), thường gọi là **Cung Thuận Hoàng quý phi Lý thị** (恭顺皇贵妃李氏) hay **Lý Quý phi** (李李氏) là một phi tần của
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**Niên biểu Nội Các đại thần nhà Minh** bao gồm tất cả thành viên Nội Các nhà Minh bắt đầu từ năm Hồng Vũ thứ 35 (1402) kéo dài đến năm Sùng Trinh thứ 17
**Hoàng tộc nhà Minh** của người Hán xuất hiện khi nhà Minh được thành lập nên ở Trung Quốc năm 1368 do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thành lập và lực lượng khởi nghĩa
**Minh Thập Tam lăng** () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Minh Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 明慈皇太妃; ?– 1365), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Anh Tư Phu nhân** (英姿夫人) hay **Anh Tư Nguyên phi** (英姿元妃), là một cung
**Minh thực lục **() là bộ biên niên sử viết về triều Minh Trung Quốc. Bộ sử ghi lại các sự kiện bắt đầu từ thời Minh Thái Tổ tới Minh Hi Tông, tổng cộng
**Công tước** thời nhà Minh thường được phong cho công thần khai quốc như Từ Đạt,Thường Ngộ Xuân,Lý Thiện Trường,Quách Dũ Sau này đây thường là tước truy phong cho công thần.Công thần được phong
**Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan** (tiếng Trung: 台湾民主自治同盟, tức _Đài Loan dân chủ tự trị đồng minh_) gọi tắt là **Đài Minh** là một trong 8 đảng phái dân chủ của Cộng
**Minh Nguyên Tông** (_chữ Hán_:明元宗) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Minh Nguyên Tông Chu Hanh Gia: truy tôn, tự xưng giám quốc nhà Nam Minh (1645-1646) *Minh Nguyên
**Chu Từ Lãng** (; 1629 – 1644), là Hoàng thái tử cuối cùng của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Chu Từ Lãng là con trai trưởng của Minh Tư Tông
Trí Tuệ Về Đạo Làm Quan Quan trường, Hoan lộ vốn từ xưa đã để lại không biết bao câu chuyện, tình huống mà kẻ trong cuộc chỉ còn biết thốt lên nỗi chua xót
nhỏ|Central Post Office, Ho Chi Minh City **Tu viện dòng Thánh Phaolô** là một nữ tu viện thuộc Dòng Thánh Phaolô thành Chartres nằm ở số 4 đường Tôn Đức Thắng, phường Sài Gòn, Thành
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Dương Văn Minh** (16 tháng 2 năm 1916 – 6 tháng 8 năm 2001), là một trong những nhân vật chính trị và quân sự quan trọng của Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm