✨Vương Dương Minh

Vương Dương Minh

Vương Dương Minh (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là Thủ Nhân (守仁), tự là Bá An (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng xuất sắc thời nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời ông còn là người văn võ song toàn, từng là tướng mang quân đi dẹp loạn nhiều lần. Quê ông ở Chiết Giang nhưng phải sống ở nhiều nơi khác nhau. Ông từng có thời gian sống ở hang Dương Minh nên ông được người ta gọi là Dương Minh tiên sinh. Ông là người đã xây dựng Dương Minh phái, có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Nhật Bản, Triều Tiên và cả Việt Nam. Ông cũng là 1 kỳ thủ cờ tướng.

Cuộc đời

left|thumb|Nơi ở cũ của Vương Dương Minh

Nguồn gốc

Vương Dương Minh sinh năm 1472 vào đời Minh Hiến Tông ở huyện Dư Diêu, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày này trong một gia đình đạo đức, hiển đạt.

Ông tổ xa của ông là Vương Hy Chi. Ông nội của ông là Vương Luân, là một nhà nho được trọng vọng về đức hạnh và văn học. Thân phụ của ông là Vương Hoa.

Thuở thiếu thời

Vương Dương Minh là người có thể chất bạc nhược từ nhỏ, năm tuổi ông mới biết nói, nên gia đình không bắt ông đi học sớm. Bù vào đó ông rất thông minh, chỉ nghe ông nội đọc sách mà thuộc từng đoạn dài. Năm mười tuổi ông đã làm được thơ.

Tương truyền rằng ông nội của ông cùng bạn uống rượu trong chùa Kim Sơn muốn làm bài tức cảnh mà chưa nghĩ ra. Vương Dương Minh ứng khẩu làm hai bài, một bài lấy đề là "Tề nguyệt sơn phòng" :

Ngay từ bé ông đã bộc lộ tư chất và chí khí hơn nữa. Một lần khác ông lại hỏi thầy học: :- Thưa thầy, ở đời có việc gì là cao hơn cả?

Thầy học đáp: :- Thi đậu ra làm quan để thờ vua giúp nước, làm vẻ vang cho tổ tiên là cao hơn cả.

Vương Dương Minh lắc đầu đáp: :- Thưa thầy, con cho vậy là chưa cao, học làm được ông thánh mới là cao.

Thầy học giật mình, mà không dám cho cậu là ngông.

Con người ham mê học tập

Năm 15 tuổi, nhân đi chơi ở cửa ải Cự Dung, phục tinh thần trọng võ của người Hồ ở phương Bắc, Vương Dương Minh bèn theo người Hồ học cưỡi ngựa, bắn cung. Chẳng bao lâu sau, ông đã thạo cả cung lẫn ngựa. Ông định viết sớ toan dâng triều đình để hiến kế dẹp loạn thì bị cha ông ngăn cản.

Hai năm sau, ông sang Giang Tây để cưới vợ. Ông lang thang ngoài phố gặp một đạo sĩ thuyết phép dưỡng sinh mà quên cả việc lấy vợ. Đến tận sáng sớm hôm sau ông mới trở về nhà cha vợ.

Sau đó ông lại say mê tập viết chữ. Ông ở nhà vợ liền bỏ thì giờ tập viết nắn nón chữ viết ngày này qua ngày khác. Ông tự lập ra quy tắc: "Mới đầu phải trầm tĩnh suy nghĩ, định rõ hình dáng của mỗi chữ trong óc rồi mới hạ bút đừa liền tay như mỗi hàng có một nét".

Đồng thời trong thời gian thi trượt, ông còn chuyên tâm học binh pháp, đọc sách của các binh gia thời xưa.

Làm quan

Tranh vẽ Vương Dương Minh

Thi đỗ và làm quan

Năm 1492, Vương Dương Minh đậu khoa cử nhân, theo cha lên kinh, tìm đọc hết sách của Chu Hy.

Sau đó ông thi Hội nhưng bị trượt hai khóa. Ông không nản chí bảo rằng: :"Thi trượt không xấu hổ, thi trượt mà buồn mới là xấu hổ".

Năm 1499, ông đậu Nhị giáp tiến sĩ, trở thành tiến sĩ Nho học, được vào tập sự ở bộ Công kế.

Từ đây bắt đầu ông làm quan giữ nhiều chức vụ khác nhau. Ông từng ở bộ Công, bộ Hình, làm quan huyện, làm tướng, có lúc bị giáng xuống làm viên cai trạm. Bất kì ở chức nào ông cũng tỏ ra rất đắc lực, thanh liêm, khoan hòa chính trực thành ra người dưới thì tôn trọng mà bọn tiểu nhân thì ghen ghét.

Ở hang Dương Minh

Năm 30 tuổi, ông bị bệnh nặng, thổ huyết nên phải tạm cáo bệnh về nhà. Trong thời gian này ông làm nhà ở động Dương Minh cách Hàng Châu hai chục dặm. Ở đây ông nghỉ ngơi, tập phép dưỡng sinh của Đạo giáo, học thêm về các môn bói, số đồng thời nghiên cứu cả về Phật giáo.

Bị giáng chức đi đày

Năm 1504, khi bệnh tình hồi phục, ông về triều làm quan ở bộ Binh. Hai năm sau (1506), Minh Vũ Tông lên ngôi, tin dùng bọn hoạn quan Bát hổ, đặc biệt là Lưu Cẩn. Vương Dương Minh khẳng khái trách tội nhà vua tin dùng hoạn quan mà bắt tội bề tôi trung nghĩa. Vũ Tông nổi giận sai đánh ông bốn chục trượng rồi giáng xuống làm quan cai trạm ở Long Trường, tỉnh Quý Châu, giáp Vân Nam. Tuy nhiên, ông sau đó được bổ nhiệm lại làm tri phủ tỉnh Giang Tây.

Để trừ hậu họa, Lưu Cẩn còn sai người đi ám sát ông. Ông đoán được, đến sông Tiền Đường, ông bỏ quần áo lại với một bài thơ, giả vờ tự vẫn. Sau đó ông lội vào bờ núp trong đám sậy đến tối mới đáp thuyền đi Chiết Giang. Sau bao gian nan vất vả ông đến Long Trường. Trong thời gian này ông ở gần người Miêu, vốn phong thủy tập quán không hợp, thậm chí không có nhà để ở, phải ở trong hang.

Ở đây ông dạy người Miêu lễ nghi người Hán, dần dần ông cũng quen với cuộc sống người Miêu ở đây mà đem lòng quý mến tính tình chất phác của họ. Ngược lại dân Miêu cũng quý mến mà cất nhà cho ông.

Năm 1510, sau khi Lưu Cẩn bị xử tử, ông được Minh Vũ Tông phục chức rồi được triệu về kinh. Từ đây ông bắt đầu được triều đình cử đi dẹp loạn trong nước.

Giữ gìn nội trị

Từ năm 1516, ông đi đánh dẹp nhiều giặc giã ở miền nam, trước sau dẹp được năm cuộc nổi dậy:

Giặc Chương Châu ở Giang Tây, Phúc Kiến năm 1517

Giặc Dũng Cương, Hoành Thủy ở Quảng Đông năm 1517

Giặc Tam Lợi ở Giang Tây năm 1518

Loạn Thần Hào ở Nam Xương, năm 1519

Giặc Tư Ân và Bát Trại ở Quảng Tây, năm 1528

Cách tổ chức quân đội

Vương Dương Minh không dùng tướng của triều đinh, cho những lính già, yếu về nhà hết, lựa chọn những người khỏe mạnh trong dân gian, sung vào quân đội, rồi tuyển ngay trong số đó những kẻ có tài để trao quyền chỉ huy.

Ông tổ chức quân đội, chia ra làm ngũ, đội, sáo, doanh, trận, quân: cứ 25 người làm một ngũ, có chức tiểu giáp chỉ huy; 50 người làm một đội, có chức tổ giáp chỉ huy; 200 người làm một sáo, có một chức trưởng quan và hai chức hiệp trưởng; 400 người làm một doanh, có một chức doanh quan và hai chức tham mưu coi giữ; 1200 người làm một trận có chức thiên tướng coi giữ. Mỗi chức từ lớn tới nhỏ đều có quyền hành với kẻ dưới và chịu trách nhiệm với người trên.

Ông chú trọng dùng quân giỏi và tinh nhuệ chứ không cốt đông, chỉ khi sắp xếp kỹ lưỡng mới đưa quân ra trận. Tài năng của ông rõ nhất trong việc đánh dẹp cuộc nổi loạn của Ninh vương Chu Thần Hào.

Dẹp loạn Thần Hào

Ninh vương Thần Hào có binh hùng tướng mạnh, thế của quân triều đình bất lợi. Vương Dương Minh chưa kịp đến nơi thì đã có tin Thần Hào đem binh đi đánh hai thành Nam Khang, Cửu Giang rồi chiếm Nam Kinh để lên ngôi Hoàng đế. Vương Dương Minh liền viết mật chỉ giả, làm như triều đình biết trước mưu phản nghịch của hắn mà đề phòng kỹ, ra lệnh xuất binh chặn đường. Ông sắp đặt cho Thần Hào bắt được mật chỉ, quả nhiên Thần Hào sinh nghi, chưa dám xuất quân vội, và trong lúc do dự, ông có thì giờ kêu gọi quân các nơi khác lại và tổ chức lại quân đội. Mọi việc xong xuôi, ông mới truyền hịch kể tội giặc, hô chiếu cần vương.

Mặt khác, ông tìm cách chia rẽ vây cánh Thần Hào, làm tờ trình về nói nhận được mật thư xin hàng của mưu sĩ của Thần Hào đồng thời lại viết những bức thư trả lời dặn dò cách xử sự ra sao. Tất nhiên, hết thảy những giấy tờ giả mạo đó đều đến tay Thần Hào và nội bộ của hắn lủng củng.

Khi Thần Hào rời căn cứ Nam Xương mà đánh Yên Khánh. Ông dùng kế "Vây Ngụy cứu Triệu" đánh thẳng vào sào huyệt Nam Xương. Thần Hào đâm lo; bọn mưu sĩ khuyên Hào bỏ Nam Xương mà đánh dốc lên Nam Kinh rồi lên ngôi Hoàng đế, tiến lên Bắc Kinh. Nhưng vì nghi kỵ hắn không nghe, trở về cứu Nam Xương và bị quân của Vương Dương Minh bắt sống. Loạn Thần Hào bị dẹp yên chỉ trong vòng 42 ngày.

left|thumb|Lăng Vương Dương Minh ở Thiệu Hưng

Vương Dương Minh cũng là một trong những người đầu tiên để cập đến súng đại bác "Phật Lang Cơ" (佛郎機, fo-lang-ji), loại súng thần công nạp hậu truyền đến Trung Quốc từ người Bồ Đào Nha. Trong thời gian nhận chức Giang Tây, Vương Dương Minh cải tổ quân đội, xây trường học, cải tạo tù phạm, khắc phục các thiệt hại kinh tế do chiến loạn gây ra. Ông được phong tước Bá, nhưng cũng bị đàn hặc do công khai phản đối trường phái Nho học của Chu Hi.

Qua đời

Vì triều đình rối loạn đồng thời vua Minh Thế Tông không biết xoay xở sao nên một mực dụ dỗ, sai ông đi dẹp giặc Tư Ân và Bát Trại. Dẹp xong thì bệnh tình của ông trầm trọng, lúc nóng lúc lạnh, ho mửa ra máu.

Tháng 10 năm 1528, ông dâng sớ cáo quan về dưỡng bệnh. Ông giao binh quyền cho Vương Đại Dụng rồi không đợi chiếu nhà vua mà sắm sẵn một chiếc quan tài theo để về quê. Mới tới Nam An thì ông mất, thọ 56 tuổi.

Ba mươi tám năm sau khi mất, ông được truy phong tước hầu, hiệu Văn Thành (文成). Năm 1584, Vương Dương Minh được đề tên trong Văn miếu, đây là vinh dự cao nhất của một nhà nho.

Tư tưởng triết học

thumb|Chân dung Vương Dương Minh Thoạt tiên ông đọc Chu Hi, Chu Di giảng 4 chữ "Cách vật trí tri" trong sách Đại học là xét "đến cái lý của sự vật, muốn cho những chữ nhỏ nhặt tới đâu cũng hiểu được thấu đáo". Vương theo lời giảng đó mà bỏ ra 7 ngày liền ngồi dưới một bụi trúc để tìm cái "lý" của cây trúc; nhưng mất công toi, ông sinh ra chán nản.

Mãi ba chục năm sau, ông bỗng nhiên tỉnh ngộ, thấy rằng không thể đến với sự vật để tìm ra đạo lý được, mà đạo lý ở trong tâm ta, hễ ta tu dưỡng làm lành lánh ác, diệt tà niệm cho tâm được sáng suốt thì sẽ thấy Đạo Trời và Đạo Người. Đó là thuyết của Lục Cửu Uyên từ đời Tống. Có lẽ ông không đọc Lục cho nên mới mất 30 năm để tìm lại ra được nó.

Có người hỏi Vương Dương Minh: :Đạo Nho với đạo Phật khác nhau thế nào?

Ông đáp: :Không nên tìm cái đồng, cái dị của đạo Nho, đạo Phật, tìm cái Phải mà học là được vậy.

Vương Dương Minh theo tâm học của Lục Cửu Uyên, coi tâm, đạo và trời là một, nếu hiểu rõ "tâm" , thì cũng hiểu được đạo và trời . Ứng dụng tâm học về mặt đạo đức, ông chủ trương "trí lương tri" và "tri hành hợp nhất". "Trí lương tri" (thực hiện triệt để điều hiểu biết tốt lành), vì lương tri là điểm sáng của lòng người, đó cũng là lẽ trời (thiên lý): "Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng linh diệu là lương tri" . Thuyết "trí lương tri" của Vương Dương Minh kế tục ý niệm "lương tri lương năng" của Mạnh Tử, nhấn mạnh "trí" . Hệ quả của "trí lương tri" là "tri hành hợp nhất". Vương Dương Minh bản thân không có trước tác, nhưng những điều giảng dạy của ông đã được học trò ghi lại thành sách với tên "Ngữ lục", "Văn lục", "Biệt lục", "Phụ lục", vv., gồm 38 quyển với tên "Vương Văn Thành Công toàn thư".

Tóm lại học thuyết của ông kết tinh trong bốn câu dưới đây:

  • Không thiện không ác: ấy là cái thể của Tâm.
  • Có thiện, có ác: ấy là sự động của ý.
  • Biết thiện, biết ác: ấy là lương tri.
  • Làm điều thiện, xua điều ác: ấy là cách vật.

Học thuyết đó hoàn toàn duy tâm, có màu sắc Phật giáo hơn là Khổng giáo.

Ảnh hưởng của Dương Minh phái

Vương Dương Minh được đánh giá rất cao trong giới Nho học. Ông được đánh giá là một trong bốn vị thầy vĩ đại nhất của đạo Nho, sánh ngang với Khổng Tử, Mạnh Tử và Chu Hi.

Ông thành lập phái Dương Minh tâm học hay còn gọi là Diêu giang phái.

Đạo học của ông gọi chung là Dương Minh phái hay Dương Minh học, có ảnh hưởng lớn đến Nho học thời nhà Minh và nhà Thanh, đồng thời có ảnh hưởng đặc biệt lớn với Nhật Bản.

Giới trí thức Nhật đã tích cực tiếp thu và phổ biến tư tưởng của Vương Dương Minh tức "Dương Minh Học" chủ trương "Tri hành hợp nhất, Vạn vật nhất thể, Chí lương tri..." và canh tân. Rất nhiều học giả Nhật Bản đã chú tâm nghiên cứu đạo học của Vương Dương Minh.

Năm 1950, Tưởng Giới Thạch đã đổi tên vườn quốc gia Thảo Sơn ở Đài Loan thành Dương Minh Sơn để tưởng nhớ công lao của Vương Dương Minh.

Năm 2017, chính quyền thành phố Quý Dương đã khánh thành công viên Vương Dương Minh, cùng với đó là một nhà trưng bày các tác phẩm của ông để tưởng nhớ và vinh danh những đóng góp của ông.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
Dưới đây là danh sách xét về phả hệ các thân vương nhà Minh (明朝), được chia ra nhiều hệ. ## Phân loại hệ án của hoàng đế *Hy Tổ hệ *Nhân Tổ hệ *Thái
Hệ phả con cháu của Tần vương (秦王) vốn là dòng con cháu của Minh Thái Tổ, danh sách theo các dòng. ## Nước Tần (秦國) ### Nước Vĩnh Hưng (永興國) ### Nước Bảo An
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Loạn Ninh vương** (chữ Hán: 寧王之亂, _Ninh vương chi loạn_), sau xưng là **loạn Chu Thần Hào** (朱宸濠之乱) hoặc **loạn Thần Hào** (宸濠之乱), chỉ về sự kiện diễn ra vào năm thứ 14 thời Chính
**Vương Bảo Minh** (chữ Hán: 王寶明, 455–512), thụy hiệu **Văn An hoàng hậu** (文安皇后), hay còn có hiệu là **Tuyên Đức Thái hậu** (宣德太后), là thái tử phi của thái tử Tiêu Trưởng Mậu và
**Vương Đông Minh** (; sinh tháng 7 năm 1956) là cử nhân triết học, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王源, 1648 – 1710), tự Côn Thằng, tự khác Hoặc Am, người Đại Hưng, Trực Lệ , học giả ủng hộ học phái Nhan Lý đầu đời Thanh, phản đối Tống
**Vương Cương** (chữ Hán: 王纲, ? - ?), tự Tính Thường, người Dư Diêu, Chiết Giang, quan viên nhà Minh. Ông là tổ 7 đời của triết gia Vương Dương Minh, được sử cũ xếp
**Vương Chung Minh** (, tiếng Anh: Chung-Ming Wang; sinh ngày 8 tháng 12 năm 1978) là một Wikipedian Đài Loan, chính khách, nhà bảo vệ môi trường và nhà hoạt động vì quyền của người
**_Bá vương đường phố_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Street Kings_**) là bộ phim hình sự - hành động - tâm lý Mỹ của đạo diễn David Ayer, phát hành vào năm 2008. Phim có sự
Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam
**_Đại Đường Minh Nguyệt_** _(; tiếng Anh: Weaving A Tale of Love)_ là một bộ phim truyền hình cổ trang của Trung Quốc được chuyển thể từ bộ tiểu thuyết cùng tên của tác giả
thumb|Thư pháp cuồng thảo của Chúc Doãn Minh: phần đầu của _Trú cẩm đường ký_, bản gốc bởi [[Âu Dương Tu]] **Chúc Doãn Minh** (; 1461–1527), tên chữ là **Hy Triết** (希哲), hiệu **Chi Sơn**
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
[[Tùy Dạng Đế, do họa sĩ thời Đường Diêm Lập Bản họa (khoảng 600–673)]] Chân dung [[Đường Cao Tổ]] **Tùy mạt Đường sơ** (隋末唐初) đề cập đến một giai đoạn mà trong đó triều đại
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Vương Đô** () (?- 26 tháng 3 năm 929), nguyên danh **Lưu Vân Lang** (劉雲郎), là một quân phiệt vào thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ
**Hậu Tấn Cao Tổ** (30 tháng 3, 892), tên thật là **Thạch Kính Đường** (石敬瑭), là hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Tấn, vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời
**Lưu Vũ** (, 184 TCN-144 TCN), tức **Lương Hiếu vương** (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước
**Lý Hiến** (chữ Hán: 李憲; 679 - 15 tháng 1, 742), bổn danh **Thành Khí** (成器), là một Hoàng tử nhà Đường, con trưởng của Đường Duệ Tông Lý Đán, mẹ là nguyên phối của
**Vương Xử Trực** (, 862-922), tên tự **Doãn Minh** (允明), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và đầu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ từ
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Vương quốc Hungary** (tiếng La Tinh: _Regnum Hungariae_, tiếng Hungary: _Magyar Királyság_) là một nhà nước ở Trung Âu, ra đời khi Stephen I, Đại thân vương Hungary, lên ngôi vua vào năm 1000 hoặc
**Con Đường Tơ Lụa** (, ) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
**Dương Tam Kha** (chữ Hán: 楊三哥, ? - 980), tức **Dương Bình Vương** (楊平王), là một vị vua Việt Nam, trị vì từ 944 đến 950, xen giữa triều đại nhà Ngô trong lịch sử
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
thumb|right|Mô hình tàu của đội thám hiểm Trịnh Hòa, [[bảo tàng khoa học Hồng Kông.]] **Trịnh Hòa hạ Tây Dương** là bảy chuyến thám hiểm hàng hải của hạm đội kho báu cho nhà Minh
**Sào Lạt vương phi Dương thị** (chữ Hán: 巢剌王妃楊氏), không rõ tên, nguyên từng là Vương phi của Tề vương, cải Sào Lạt vương Lý Nguyên Cát, rồi trở thành một Thứ phi không chính
**Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 肅明順聖皇后, ? - 693), là Hoàng hậu của Đường Duệ Tông Lý Đán, một vị Hoàng đế nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Vương Tích** (chữ Hán: 王績) (585? – 644?), tên tự là **Vô Công**, hiệu **Đông Cao Tử**, người ở huyện Long Môn, Giáng Châu cuối thời Tùy đầu đời Đường. Thi nhân thời Sơ Đường,
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người