Kim Thanh (chữ Hán: 金声, ? – 1645), tự Chánh Hy, người huyện Hưu Ninh, phủ Huy Châu , quan viên cuối đời Minh, kháng Thanh thất bại mà chết.
Phục vụ nhà Minh
Thanh tính hiếu học, một thời nổi tiếng nhờ học vấn. Năm Sùng Trinh đầu tiên (1628), Thanh trúng tiến sĩ, được thụ Thứ cát sĩ. Tháng 11 ÂL năm sau (1629), quân Hậu Kim nhằm thẳng vào kinh đô, Thanh khẳng khái xin gặp hoàng đế để trình bày việc gấp, được triệu kiến ở Bình Đài. Thanh tiến cử một tăng nhân là Thân Phủ, cho rằng Phủ có tài quân sự, đang chế tạo chiến xa, hỏa khí. Sùng Trinh đế nghe theo, đưa chiến xa của Phủ vào cung để xem xét, rồi cho ông ta thụ chức Đô tư thiêm thư; ngay hôm ấy triệu kiến, sau khi đối thoại thì rất vừa ý, cất nhắc vượt cấp, cho Phủ làm Phó tổng binh, ban sắc cho ông ta mộ tân quân, được tùy nghi làm việc; Tham được đổi làm ngự sử, tham mưu cho cánh quân của Phủ.
Phủ vội vã chiêu mộ mấy ngàn người, đều là du côn ở chợ búa, nhưng trang phục, vũ khí thì chưa được cấp. Bấy giờ quân Hậu Kim đã áp sát kinh kỳ, tình thế khẩn trương, khiến Phủ phải ra đóng trại ở Liễu Lâm. Tổng lý Mãn Quế tiết chế toàn quân, nhưng Phủ không chịu ở dưới quyền ông ta. Binh sĩ của Quế cướp bóc dân chúng, quân của Phủ bắt giữ chúng, Quế liền đòi thả ra. Thanh báo cáo tình hình hai người Mãn – Thân bất hòa, Sùng Trinh đế lập tức mệnh cho ông điều đình. Không lâu sau, Quế tử trận, Phủ liên tiếp thất bại ở Liễu Lâm, Đại Tỉnh, bèn kết xe làm doanh trại ở Lư Câu Kiều. Quân Hậu Kim vòng ra phía sau tập kích, người đánh xe hoảng sợ không thể xoay xở, khiến toàn quân bị diệt, Phủ cũng trận vong. Thanh đau đớn thương xót, nói Phủ mới nhận việc vài ngày, xông pha tiền tuyến, di hài khắp mình đều là thương tích, nếu không liều chết chiến đấu thì không đến nỗi như vậy. Sùng Trinh đế cũng thương xót Phủ, mệnh cho hưởng điển lễ tử tuất.
Thanh xấu hổ vì không có công, xin soái 700 binh của tham tướng Đổng Đại Thắng, hơn trăm người là binh sĩ cũ của Thân Phủ, cùng vài trăm người là hào kiệt tòng quân, luyện thành 1 lữ, làm kỳ binh của Lưu Chi Luân, để dốc sức cứu vãn tình thế, Sùng Trinh đế không cho. Ít lâu sau triều đình lấy Thanh tra xét việc quân nhu cạn kiệt, tìm ra kinh phí cho phòng bị biên thùy, ông xin án theo luật để định tội những kẻ liên quan, rồi lại dâng sớ xin bãi miễn bọn họ, đế đều không nghe. Đông Giang quân trấn từ khi Mao Văn Long bị giết, binh lực yếu ớt, tình thế đơn bạc. Thanh nhân thái tử mới lập, tự xin ban chiếu cho Triều Tiên, khiến liên lạc với Đông Giang thông suốt, gây ảnh hưởng với thuộc quốc; đế dẫu khen ngợi ý định của ông, nhưng vẫn không theo. Thanh mấy lần dâng sớ đề nghị hoàng đế năng tiếp nhận ý kiến của quần thần, nhưng không được trả lời, nên mấy lần dâng sớ xin về.
Sau đó Đại học sĩ Từ Quang Khải tiến cử Thanh tham gia tu sửa Lịch thư, ông từ chối không nhận. Triều đình lấy chức Ngự sử để triệu, Thanh cũng không đến. Mùa xuân năm thứ 8 (1635), Thanh được khởi dùng làm Sơn Đông thiêm sự, ông lại hai lần dâng sớ, ra sức từ chối. Quê nhà có nhiều lực lượng khởi nghĩa, Thanh tổ chức đoàn luyện, tập hợp nghĩa dũng để phòng bị. Năm thứ 16 (1643), Phượng Dương tổng đốc Mã Sĩ Anh sai sứ giả Lý Chương Ngọc trưng quân đội Quý Châu, giữa đường thì cướp bóc Giang Tây, bị quan dân Nhạc Bình đánh trả. Bọn chúng chạy đến địa giới Huy Châu, quan dân ở đây cũng cho là giặc, kéo nhau đánh đuổi. Lý Chương Ngọc giấu giếm nguyên nhân, tố cáo Thanh với Huy Châu thôi quan Ngô Tường Phong là chủ mưu nổi loạn; Mã Sĩ Anh tâu lên, Thanh hai lần dâng sớ biện bạch; đế xét ông vô tội, nên không hỏi. Mùa đông năm ấy, triều thần cùng nhau tiến cử, đế lập tức triệu dùng, Thanh vội về kinh để bệ kiến, nhưng chưa đến nơi thì kinh sư thất thủ.
Phục vụ nhà Nam Minh
Hoằng Quang đế lên ngôi ở Nam Kinh (1644), cất nhắc Thanh làm Tả thiêm đô ngự sử, ông kiên trì không nhận. Quân Thanh phá Nam Kinh, các nơi nối nhau không đánh mà hàng. Thanh tập hợp quan dân giữ Tích Khê, Hoàng Sơn, chia binh chẹn Lục Lĩnh ; được bọn người Ninh Quốc là Khâu Tổ Đức, người Huy Châu là Ôn Hoàng, người Quý Trì là Ngô Ứng Cơ,... hưởng ứng. Thanh bèn sai sứ dâng biểu ủng hộ Long Vũ đế (1645), được thụ chức Hữu đô ngự sử kiêm Binh bộ hữu thị lang, Tổng đốc chư đạo quân. Quân đội của Thanh giành lại các huyện Tinh Đức, Ninh Quốc.
Hạ tuần tháng 9 ÂL cùng năm, ngự sử cũ người Huy Châu là Hoàng Chú hàng Thanh, dẫn lối cho quân Thanh lẻn qua phòng tuyến mà tập kích, khiến quân đội của Thanh thất bại, ông bị bắt sống. Thanh bị xử tử ở Giang Ninh, Long Vũ đế tặng ông chức Lễ bộ thượng thư, thụy Văn Nghị.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim Thanh** (chữ Hán: 金声, ? – 1645), tự **Chánh Hy**, người huyện Hưu Ninh, phủ Huy Châu , quan viên cuối đời Minh, kháng Thanh thất bại mà chết. ## Phục vụ nhà Minh
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Kim Thánh Thán** (, 1608/1610? - 17 tháng 8 năm 1661), tên thật **Kim Vị** (金喟), là một nhà văn, nhà phê bình văn học theo lối ấn tượng của Trung Quốc, được người đời
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
Quy mô nền kinh tế Trung Quốc vào thời nhà Minh là lớn nhất thế giới đương thời. Nhà Minh cùng với nhà Hán và nhà Đường, được xem như ba kỷ nguyên hoàng kim
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Niên biểu Nội Các đại thần nhà Minh** bao gồm tất cả thành viên Nội Các nhà Minh bắt đầu từ năm Hồng Vũ thứ 35 (1402) kéo dài đến năm Sùng Trinh thứ 17
**Huyết án Ngọ môn nhà Minh** () là một sự kiện xảy ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1449 (ngày 26 tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 dưới triều Minh Anh Tông) tại
**Mã Vân** (chữ Hán: 马云, ? – 1387 ), người Hợp Phì, An Huy, tướng lãnh đầu đời Minh. Ông cùng Diệp Vượng là tướng lãnh trấn thủ Liêu Đông thuộc thế hệ đầu tiên,
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Trương Ký** (chữ Hán: 张骥, ? – 1449), tự **Trọng Đức**, người An Hóa, Hồ Nam, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp Thời Vĩnh Lạc, Ký đỗ kỳ thi Hương, được gia nhập Quốc
**Công tước** thời nhà Minh thường được phong cho công thần khai quốc như Từ Đạt,Thường Ngộ Xuân,Lý Thiện Trường,Quách Dũ Sau này đây thường là tước truy phong cho công thần.Công thần được phong
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Thành nhà Hồ** (hay còn gọi là **thành Tây Đô**, **thành An Tôn**, **thành Tây Kinh** hay **thành Tây Giai**) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu của Việt Nam dưới thời nhà Hồ),
**Trần Hoàn** (chữ Hán: 陈桓, ? – 1393), người Hào Châu , tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Ban đầu Hoàn hưởng ứng nghĩa quân
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Dương Văn Thông** (chữ Hán: 杨文骢, ? – 1646), tự **Long Hữu**, người Quý Dương, Quý Châu, là quan viên cấp thấp cuối đời Minh, dựa thế quyền thần Mã Sĩ Anh, trở thành trọng
**Hồ Quảng** (tiếng Trung: 胡廣, 1369-1418), tự **Quang Đại**, thụy **Văn Mục**, người Cát Thủy (nay là huyện Cát Thủy, địa cấp thị Cát An, tỉnh Giang Tây). Năm Kiến Văn thứ hai (1400) thời
**Trần Đức** (chữ Hán: 陈德, ? – 1378), tự **Chí Thiện**, người phủ Hào Châu, hành tỉnh Giang Chiết , tướng lãnh đầu đời Minh. ## Tham gia bình nam Đức sinh ra trong một
**Thái Vũ** (chữ Hán: 蔡羽, ? – 1541) tự **Quỳ Cửu**, hiệu **Lâm Ốc sơn nhân**, người ở Bao Sơn, huyện Ngô, phủ Tô Châu, bố chánh sứ tư Giang Tô, nhà văn hóa đời
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Nhà Hậu Kim** (1616–1636) là một triều đại Trung Quốc được thành lập bởi thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân Nỗ Nhĩ Cáp Xích ở Mãn Châu trong khoảng thời gian 1616-1636, và là tiền
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Kim Tuấn** (1938-2003) là một nhà thơ tiêu biểu trước 1975. Hai ca khúc phổ thơ của ông nổi tiếng là **Anh cho em mùa xuân** (Nguyễn Hiền) & **Những bước chân âm thầm** (Y
**Ngưu Kim Tinh** (chữ Hán: 牛金星, ? – 1652), tên tự là **Tụ Minh**, người trang Đại Ngưu thôn Pha Bắc huyện Bảo Phong tỉnh Hà Nam, mưu sĩ nổi tiếng cuối thời Minh. ##
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Cảnh Trọng Minh** (; 1604 – 1649), tự **Vân Đài** (雲臺), là vị tướng lĩnh thời Minh mạt Thanh sơ. Ông quê ở Cái Châu, Liêu Đông, từng giữ chức Tham tướng Đăng Châu đầu
**Trịnh Thành Công** () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là **Sâm**, tự là **Minh Nghiễm **hay** Đại Mộc**, hay còn được biết đến với tên gọi khác
**Lăng tẩm hoàng gia Minh – Thanh** () là quần thể các lăng tẩm, địa điểm chôn cất được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Những lăng tẩm này có từ triều đại
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
thumb|Dương Nhất Thanh **Dương Nhất Thanh** (chữ Hán: 杨一清, 24/12/1454 – 5/9/1530) là tể tướng nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Nhất Thanh tự Ứng Ninh, hiệu Thúy Am, là người
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Thanh Đàm Minh Chính** (ngày 7 tháng 6 năm 1786 – ngày 24 tháng 1 năm 1848) là một Thiền sư, cao tăng Việt Nam đời nhà Nguyễn, thuộc thế hệ thứ 37 tông Tào
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**_Hoàng Minh Tổ huấn_** là một bộ di chiếu gồm những lời khuyên răn của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế khai quốc của nhà Minh, dành cho con cháu của ông. Bộ
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Thành Bản Phủ** nằm trên một vùng rộng lớn bao quanh là sông nước và đồng ruộng thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Theo truyền thuyết và sử sách, đây
**Minh Nhân Tông** (chữ Hán: 明仁宗, 16 tháng 8, 1378 - 29 tháng 5, 1425), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ cai trị trong một