✨Trịnh Thành Công

Trịnh Thành Công

Trịnh Thành Công () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là Sâm, tự là Minh Nghiễm hay Đại Mộc, hay còn được biết đến với tên gọi khác là Trịnh Sâm, Trịnh Quốc Tính, Trịnh Diên Bình, và được dân gian tôn sùng gọi ông là Quốc Tính gia, là nhà lãnh đạo quân sự, chính trị của triều Nam Minh, sinh tại Hirado, Nhật Bản, cha là Trịnh Chi Long một hải tặc/thương nhân và mẹ là bà Tagawa Matsu người Nhật.

Trịnh Thành Công là danh tướng kiệt xuất thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh. Ông là anh hùng dân tộc Trung Quốc, đã dùng 16 năm cuối đời mình để kháng chiến nhà Thanh, không thành công trong các chiến dịch quân sự tại miền Đông Nam Trung Quốc trong nỗ lực phản Thanh phục Minh, ông đưa tướng sĩ và gia quyến vượt biển di cư sang Đài Loan, sau đó ông tổ chức và chỉ huy một hạm đội tiến hành chiến dịch quân sự đánh bại công ty Đông Ấn Hà Lan trên đảo Đài Loan từ năm 1661 đến 1662, tiếp tục tiến hành xây dựng lực lượng vững mạnh trên đảo nhằm hỗ trợ cho các hoạt động chống nhà Thanh ở đại lục, sau khi ông mất, con là Trịnh Kinh tiếp tục tăng cường cai trị, biến đảo Đài Loan thành một nước độc lập là vương quốc Đông Ninh cho tới khi bị tướng Thi Lang của nhà Thanh vượt biển mang quân sang tiêu diệt năm 1683.

Tiểu sử

Thời kỳ thiếu niên

Tượng mẹ con Trịnh Thành Công (trong miếu thờ nhà họ Trịnh ở Đài Nam, Đài Loan) phải|nhỏ|Tượng Trịnh Thành Công tại [[Cổ Lãng Tự, Hạ Môn, Phúc Kiến]] Trịnh Thành Công sinh vào ngày 2 tháng 8 năm 1624 tại đảo Hira, quốc Hizen (nay là thành phố Hirado, tỉnh Nagasaki), Nhật Bản. Cha ông tên là Trịnh Chi Long, xuất thân từ Nam An, Tuyền Châu, Phúc Kiến (bây giờ thuộc về thị trấn Thạch Tĩnh, thành phố Nam An cho tới thị trấn An Hải thành phố Tấn Giang đều nằm dưới sự cai quản của thành phố Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến), là thương nhân buôn bán kiêm thủ lĩnh một toán hải tặc, thường hoạt động trên biển giữa Nhật Bản, Đài Loan và vùng biển Phúc Kiến. Những năm đầu thời kỳ Sùng Trinh, Trịnh Chi Long quy hàng tuần phủ Hùng Văn Xán nhà Minh và được phong làm tướng quân du kích. Sau nhờ lập công nên được thăng cấp lên quan quan tổng binh. Mẹ ông tên là Tagawa, người Hirado tỉnh Nagasaki, Nhật Bản, nhưng nguyên quán lại ở Trung Quốc. Bà có họ Trung Quốc là Ông.

Năm lên 7 tuổi, Trịnh Thành Công, được cha đưa từ Nhật Bản về định cư tại Nam An, Phúc Kiến, Trung Quốc. Lúc nhỏ ông thông minh hơn người, tinh thông cả binh pháp, ngũ kinh. Năm Sùng Trinh thứ 11 (năm 1638), ông thi đậu tú tài, trong cuộc khảo thí trở thành một trong mười hai Lẫm thiện sinh của huyện Nam An. Năm 1641, kết hôn với cháu gái của Tiến sĩ Lễ bộ thị lang Đổng Dương Tiên người Huệ An, Tuyền Châu, Phúc Kiến. Năm 1644, ông vào học tại Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, trở thành thái học sinh, được gặp và học với nhà nho có tiếng đương thời là Tiền Khiêm Ích.

Cùng năm 1644, thủ lĩnh quân khởi nghĩa, Sấm vương Lý Tự Thành công phá Bắc Kinh, vua Sùng Trinh treo cổ tự tử ở Môi Sơn. Về sau Tổng binh nhà Minh trấn thủ Sơn Hải quan Ngô Tam Quế đã mở cửa biên cương dẫn quân Thanh nhập quan tiến vào Trung Nguyên, đánh bại Lý Tự Thành, chiếm lại Bắc Kinh, một số di thần nhà Minh tại Nam Kinh ủng hộ lập Phúc vương Chu Do Tung lên ngôi, năm sau (năm 1645) đổi niên hiệu thành Hoằng Quang. Tháng 5 năm 1645 (Hoằng Quang nguyên niên) Dự Thân vương Đa Đạc nhà Thanh thống lĩnh quân binh nam chinh, chiếm được Dương Châu và Nam Kinh, Binh bộ thượng thư nhà Minh là Sử Khả Pháp cùng nhiều người khác tuẫn quốc, Hoằng Quang Đế bị bắt, rồi bị giết, chính quyền Hoằng Quang diệt vong.

Thời kỳ Long Vũ

Năm Thuận Trị thứ 12 (năm 1645), Trịnh Chi Long lập Đường vương Chu Duật Kiện lên làm hoàng đế, đóng đô ở Phúc Châu, đặt niên hiệu đầu tiên là Long Vũ. Trịnh Thành Công được đưa đến yết kiến Đường vương. Đường vương rất yêu mến và ưu ái chàng thanh niên trẻ tuổi trí dũng song toàn, bèn đặt họ Chu cho ông, đổi tên ông là Thành Công. Sau đó còn phong Trịnh Thành Công là Trung Hiếu bá, tước hiệu là Quốc Tính gia.

Tháng 7, năm Thuận Trị thứ 3 (năm 1646), đại quân nhà Thanh tiến công Phúc Kiến trực tiếp đe dọa Tiên Hà Quan (nay là thành phố Thành Bắc tỉnh Phúc Kiến). Trịnh Thành Công đệ trình lên Long Vũ đế bản Điều trần kháng Thanh.Long Vũ đế phong Trịnh Thành Công làm Đô đốc Trung quân ngự doanh, và trao ấn Chiêu thảo đại tướng quân cho Trịnh Thành Công. Nhưng lúc ấy, Trịnh Chi Long vẫn còn hoài nghi triều đình Nam Minh cho nên khi quân Thanh do Bôi Lặc Bác Lạc chỉ huy, từ Chiết Giang kéo xuống Phúc Kiến, bèn ra lệnh cho tướng phòng thủ Tiêu Hà Quan là Thi Phúc (còn gọi là Thi Thiên Phúc, chú họ của tướng Thi Lang) rút quân đến Phúc Châu khi quân Thanh áp sát Phúc Kiến. Trịnh Chi Long nhanh chóng rút lui về pháo đào duyên hải, để mặc Long Vũ Đế đơn độc một mình chống quân Thanh.

Tháng 8 cùng năm, quân Thanh tấn công và chiếm được Phổ Thành, Hà Phổ, Long Vũ Đế chạy trốn qua Giang Tây, bị quân Thanh bắt sống tại Đinh Châu, về sau ông không chịu khuất phục, tuyệt thực mà chết, chính quyền Long Vũ diệt vong. Còn Trịnh Chi Long và gia tướng cùng toàn bộ lực lượng của mình lập tức đầu hàng nhà Thanh. Lúc ấy, Trịnh Thành Công đã cố gắng khuyên giải cha ông nhưng vô hiệu, thậm chí Chi Long còn định đưa Thành Công đến gặp Bôi Lặc Bác Lạc. Sau đó do sự giúp đỡ của người chú là Trịnh Hồng Quỳ, Thành Công đã lặng lẽ chạy trốn ra đảo Kim Môn.

Trịnh Thành Công dự định thành lập quân đội riêng để hoạt động vũ trang nhằm chống lại quân Thanh, nhưng số lượng quân sĩ quá ít và trang bị còn yếu kém. Vì vậy vào tháng 12 năm Thuận Trị thứ 3, ông đến tuyển mộ quân lính tại miền nam Quảng Đông (nay là đảo Nam Việt tỉnh Quảng Đông) nhanh chóng thành thành lập được một đội ngũ mấy nghìn binh sĩ. Trịnh Thành Công còn triệu tập các tướng sĩ văn võ đến và tuyên bố thành lập hội Chiêu thảo đại tướng quân, đồng thời còn ra sức rèn luyện binh sĩ, sắm sửa, tân trang vũ khí và đóng khá nhiều tàu chiến để chuẩn bị công cuộc kháng Thanh lâu dài.

Kháng cự quân Thanh ở đông nam

nhỏ|Chân dung Trịnh Thành Công

Phong trào chống Thanh dưới thời Vĩnh Lịch

Tháng 8 cùng năm, Trịnh Thành Công và người chú Trịnh Hồng Quỳ hợp lực tiến công Tuyền Châu (nay là thành phố Tuyền Châu). Chỉ trong một trận đã đánh chiếm được núi Đào Hoa tại ngoại thành Tuyền Châu, thanh thế rất lớn. Tháng 10, Minh Quế vương là Chu Do Lang lên ngôi vua ở Triệu Khánh niên hiệu Vĩnh Lịch, Quảng Đông (nay là Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông). Trịnh Thành Công cử người đến Quảng Đông chúc mừng, bản thân ông cũng tuyên bố sử dụng niên hiệu Vĩnh Lịch.

Mùa xuân năm Thuận Trị thứ 4 (năm 1647), quân Thanh đánh tập kích vào An Bình (nay là An Hải tỉnh Phúc Kiến), bản doanh cũ của quân Trịnh, và bắt sống mẹ của ông là bà Tagawa, vừa trở về từ Nhật Bản năm 1645 theo gia đình tới ở Phúc Kiến (một người anh em họ của ông là Tagawa Shichizaemon vẫn còn ở lại Nhật Bản). Bà kiên quyết không đầu hàng quân Thanh cùng chồng và tự tử sau đó, nên Trịnh Thành Công buộc phải rút quân về.

Năm Thuận Trị thứ 4 (năm 1647), tháng 7, Trịnh Thành Công hiệp đồng với Trịnh Thái cùng tiến đánh Hải Đăng nhưng thất bại. Trịnh Thành Công lại cùng Trịnh Hồng Quỳ bao vây thành Chương Châu nhưng quân Thanh có quân cứu viện nên quân Trịnh phải triệt thoái. Mùa thu, Vĩnh Lịch đế phong Trịnh Thành Công làm Uy Viễn hầu sau lại tấn phong Chương Quốc công.

Năm Thuận Trị thứ 5 (năm 1648), tháng 3 nhuận, Trịnh Thành Công lại đem quân đánh thành Đồng An (nay là Đồng An tỉnh Phúc Kiến), chỉ một trận là lấy được thành.

Năm 1649, Vĩnh Lịch đế lại phong Trịnh Thành Công tước Diên Bình Vương.

Chiến dịch Triều Châu

Sau đó Trịnh Thành Công đưa quân xuống miền nam, lần lượt đánh chiếm Chương Phố (nay là Chương Phố tỉnh Phúc Kiến), trấn Vân Tiêu (nay là Vân Tiêu tỉnh Phúc Kiến), Chiếu An (nay là Chiếu An tỉnh Phúc Kiến). Nhờ đó, đã dẹp hết được thế lực của bọn cường hào đang hùng cứ tại Hoàng Cương Quảng Đông (nay là Nhiêu Bình tỉnh Quảng Đông), Đăng Hải (nay là Đăng Hải tỉnh Quảng Đông), Triều Dương (nay là Triều Dương tỉnh Quảng Đông). Và cũng nhờ đó, đã thu hồi được một khu vực rộng lớn ở ven biển đông nam, bao gồm Triều Châu của Quảng Đông, Chương Châu và Tuyền Châu của Phúc Kiến.

Chiến dịch Hạ Môn

Năm Thuận Trị thứ 7 (năm 1650) tháng 8, Trịnh Thành Công giải phóng Hạ Môn, giành được một vị trí trú đóng lâu dài. Khi Trịnh Thành Công đem quân đến Hạ Môn, đại quân nhà Thanh đồng loạt tiến công Quảng Đông, Quảng Tây. Vĩnh Lịch Đế ban chiếu yêu cầu Trịnh Thành Công đưa quân giúp đỡ Quảng Đông. Trịnh Thành Công để lại người chú họ là Trịnh Chi Hoàn ở lại Hạ Môn,để bảo vệ, còn tự mình đưa đại quân đi cứu Quảng Châu. Kết quả, Tuần phủ Phúc Kiến Trương Học Thánh, cùng tổng binh Tuyền Châu Mã Đắc Công và tổng binh Chương Châu Vương Bang Tuấn nhân cơ hội này mà tiến đánh Hạ Môn, lấy sạch toàn bộ lương thực và vật tư quân dụng mà Trịnh Thành Công phải gian nan mới thu thập được. Khi trở về Hạ Môn, Trịnh Thành Công đã chém đầu bộ tướng dưới quyền canh giữ Hạ Môn là Trịnh Chi Noãn vì tội sợ địch bỏ chạy, không canh phòng cẩn thận. Sau đó, Trịnh Thành Công đưa quân đánh Chương Châu, đánh bại Đề đốc Phúc Kiến Dương Minh Cao, giành lại Chương Phố.

Năm Thuận Trị thứ 11 (năm 1654), triều đình nhà Thanh một lần nữa sai người đến khuyên dụ Trịnh Thành Công, và phong cho ông làm Tịnh Hải tướng quân, đặc cách cho phép Trịnh Thành Công được đóng quân tại 4 phủ: Chương Châu, Triều Châu, Huệ Châu và Tuyền Châu. Nhưng ông vẫn không có ý tiếp nhận. Lại tự mình đặt ra lục bộ để điều hành chính sự, bao gồm bộ Lại, bộ Lễ, bộ Hộ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Công, phân chia lực lượng quân sự của mình thành 72 trấn

Tiến đánh Chiết Giang

Năm Thuận Trị thứ 10 (năm 1653), triều đình nhà Thanh cử cố sơn ngạch chân (固山額真) Kim Lệ đưa quân xuống miền nam, hợp lực với Lưu Thanh Thái, Tuần phủ Phúc Kiến mới nhậm chức, vây đánh Trịnh Thành Công. Hai bên đóng quân cách nhau một cự ly gần, ở giữa là nước biển, hình thành thế trận giằng co. Tuy nhiên, quân Thanh có nhiều quân và pháo hơn quân Trịnh. Mỗi lần đánh nhau, quân Thanh đều tỏ ra mạnh hơn. Trịnh Thành Công đích thân ra trận, chỉ huy các tướng Vương Tú Ký, Xá Văn Hưng dốc toàn lực đề kháng quân Thanh, cuối cùng đã đánh bại quân Thanh, bảo vệ được Hải Đăng.< Trịnh Thành Công còn gửi một hạm đội tới chiếm đảo Châu Sơn để ngăn chặn Tế Độ tấn công lần nữa,

Năm Thuận Trị thứ 14 (năm 1657), để kiềm chế quân Thanh đang tiến công Vân Nam, Trịnh Thành Công đưa đại quân ra miền bắc. Tháng 8, quân Trịnh tiến công Hoàng Nham (nay là Hoàng Nham, tỉnh Chiết Giang). Tháng 9 vây hãm Thái Bình (nay là Ôn Lĩnh, tỉnh Chiết Giang) và Thiên Thai (nay là Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang). Tuy nhiên, lúc ấy Tổng đốc Phúc Kiến của nhà Thanh là Lý Soái Thái đã thừa cơ đánh chiếm Mân An trấn (nay là đông bắc huyện Trường Lạc, tỉnh Phúc Kiến). Vì vậy, Trịnh Thành Công phải rút quân về Hạ Môn, để bảo vệ an toàn cho khu căn cứ hậu phương.

Chiến dịch Trường Giang, Nam Kinh

phải|Bản đồ phạm vi thế lực Trịnh Thành Công (Màu cam là khu vực Trịnh Thành Công kiểm soát, còn màu đỏ là những khu vực ông từng chiếm giữ) Năm Thuận Trị thứ 15 (năm 1658), Trịnh Thành Công mưu tính đưa đại quân tiến vào nội địa, bèn cùng với các tướng Cam Huy và Dư Tân đưa thủy quân tiến công Lạc Thanh. Khi xuất quân từng tuyên bố quân Trịnh có 10 vạn. Sau khi vây hãm Lạc Thanh, lại đánh chiếm được Ôn Châu. Trương Hoàng Ngôn đến hội kiến Trịnh Thành Công. Trịnh lại đưa quân đi sâu vào Trường Giang, tạm đóng quân tại Dương Sơn. Bỗng trời nổi gió bão, gây thiệt hại rất lớn cho thủy quân của Trịnh Thành Công. Trịnh buộc phải lui về đóng quân tại Châu Sơn. Quế vương hạ chiếu tấn phong Trịnh Thành Công làm Quận vương nhưng ông từ chối, vẫn tự xưng là Chiêu thảo đại tướng quân.

Kế hoạch tiến đánh Luzon

Năm 1565, Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập sự thống trị thực dân trên quần đảo Philippines. Từ năm 1603 đến 1639, thực dân Tây Ban Nha hai lần thảm sát thương nhân người Hoa ở hòn đảo lớn nhất Luzon, khiến số người chết lên đến hơn 50 nghìn, đó là tình hình ở nước ngoài của người Hoa tại Philippines, sau năm 1657, Trịnh Thành Công từng gửi thư đến một đội trưởng người Hoa tại Batavia trên đảo Java, yêu cầu hắn dừng ngay các hoạt động giao thương buôn bán với thực dân Tây Ban Nha ở Philippines, Trịnh Thành Công nhiều lần bày tỏ mối quan tâm của ông đối với người Hoa ở Philippines, ông còn dự tính sẽ thống lĩnh quân đội vượt biển sang chinh phục Philippines, để trừng phạt người Tây Ban Nha.

Năm 1662, sau khi Trịnh Thành Công công chiếm Đài Loan, tháng 4 cùng năm, thông qua cha cố Maria a Cintoia từ nước Ý sang trình quốc thư cho Tổng đốc Tây Ban Nha ở Philippines, trong thư Trịnh Thành Công khiển trách người Tây Ban Nha về tội trạng giết hại người Hoa, lệnh cho họ phải "cải tà quy chính, cúi đầu nộp cống", nhưng người Tây Ban Nha không chấp nhận, lại còn tiến hành thảm sát Hoa kiều lần thứ ba tại thủ đô Manila của Philippines. Trịnh Thành Công rất tức giận sau khi nghe tin này, quyết định thống lĩnh quân đội đi chinh phạt, nhằm trả thù cho Hoa kiều, ông một mặt cho phủ dụ và an trí nhiều Hoa kiều trốn từ Philippines sang Đài Loan, mặt khác lại tổ chức quân đội trù bị, phái người bí mật liên lạc với Hoa kiều tại Philippines, chờ đợi thờ cơ thuận lợi tiến hành chinh phạt, nhưng chính trong thời gian đó tại Đài Loan đã xảy ra khá nhiều biến cố trong gia đình của Trịnh Thành Công, khiến ông ngã bệnh qua đời ngày 23 tháng 6 năm 1662.

Về sau, con trưởng của ông là Trịnh Kinh từ năm 1670 đến 1671 hai lần chuẩn bị phái hạm đội chinh phạt Manila, nhưng nhân vì loạn Tam Phiên, Trịnh Kinh phải dẫn quân vượt biển sang phía tây tới Phúc Kiến nhằm chi viện cho Cảnh Tĩnh Trung mà kế hoạch chưa thể thực hiện được.

Xây dựng chính quyền mới

Sau khi giải phóng Đài Loan, Trịnh Thành Công lập tức bắt tay vào việc chỉnh đốn và xây dựng Đài Loan. Ông đổi tên thành Nhiệt Lan Thứ thành An Bình trấn, để kỷ niệm quê hương ông. Ông còn xây dựng một hệ thống bộ máy cai trị Đài Loan giống như của triều Minh.

Về mặt địa lý, ông hạ lệnh đồn khẩn phạm vi Đài Loan, phía bắc tới Cát Mã Lan (nay là Nghi Lan, bắc Đài Loan), phía nam tới Lang Kiệu (nay là Hằng Xuân, nam Đài Loan) nhưng vì do vua tộc Bình Bộ Đại Đỗ là Papora (tiếng Trung đọc là Phách Bố Lạp) cùng với người Phiên ở Lang Kiệu phản kháng nên đành tạm hoãn khuếch trương lãnh thổ, khu vực thống trị thực tế của Trịnh Thành Công ước tính phạm vi khoảng từ Nhân Lâm (nay là trấn Nhân Lâm huyện Chương Hóa, Đài Loan) cho tới Gia Đằng (nay là hương Giai Đông huyện Bình Đông, Đài Loan).

Ngoài ra, Trịnh Thành Công còn hết sức chú ý việc ổn định dân tình, chỉnh đốn kỷ cương quân đội, quy định toàn quân phải lập đồn điền tăng gia sản xuất, nhằm giải quyết những khó khăn về hậu cần. Ông định ra rất nhiều chính sách nhằm khai phá và quản lý Đài Loan. Những chính sách đó, rất được nhân dân sở tại đồng tình ủng hộ, tạo cơ sở vững chắc cho sự thống trị của vương triều họ Trịnh về lâu dài. ông cố là Trịnh Dung (tự Tây Đình, có thuyết nói là Trịnh Vương Dung); ông nội là Trịnh Sĩ Biểu (có thuyết nói là Trịnh Thiệu Tổ) tự Dục Trình, hiệu Tượng Đình, người làng Thạch Tỉnh phủ Nam An, Tuyền Châu Phúc Kiến.

Cha

  • Trịnh Chi Long, còn gọi là Nhất Quan, hiệu Phi Hoàng, là thương nhân kiêm thủ lĩnh một nhóm cướp biển khá mạnh, hoạt động vùng duyên hải đông nam Trung Quốc cuối thời Minh, làm giàu bằng cách tham gia buôn bán trên biển với Nhật Bản và Trung Quốc đại lục, tổ chức được một lực lượng quân sự lớn mạnh, đặt cơ sở vững chắc cho thực lực chống Thanh của vương triều họ Trịnh về sau.

Mẹ

  • Tagawa (Điền Xuyên) (1601 - 1646) người Xuyên Nội Phố, đảo Hirado, Nagasaki Nhật Bản, tên họ không rõ, ghi theo âm vực vùng Hirado theo truyền thuyết là "マツ", bính âm La Mã là "Matsu" chữ Hán có thể ghi là Tùng "松" bà sinh tại nhà Tagawa, về sau mẹ bà cải giá lấy một người thợ rèn Hoa kiều di cư từ Tuyền Châu Phúc Kiến Trung Quốc tới Hirado là Ông Dực Hoàng, nên bà trở thành kế nữ của Ông Dực Hoàng, vì vậy mà bà còn có họ Trung Quốc là Ông, gọi là Ông Thị "翁氏" hoặc Ông Thái Cơ "翁太妃".

Thê thiếp

  • Chính thất Đổng thị, cháu gái của Tiến sĩ Lễ bộ thị lang Đổng Dương Tiên người Huệ An,Tuyền Châu, Phúc Kiến, mẹ Trịnh Kinh.
  • Ngoài ra còn có Trắc thất các phu nhân họ Trang, Lâm, Sử, Sái, Tằng, Sái.

Anh em

  • Tagawa Shichizaemon (Điền Xuyên Thất Tả Vệ Môn), thực tế là con trai thứ hai của Trịnh Chi Long, còn được gọi bằng tên khác là Tagawa Jirozaemon, cuộc đời của Shichizaemon phần lớn đều ở tại Nhật Bản, hai người con trai của ông được đặt tên chữ Hán là "Trịnh" và "Phúc Chủ".
  • Trịnh Độ (Thanh sử cảo ghi là Trịnh Thế Trung), con trai thứ hai của Trịnh Chi Long.
  • Trịnh Ân (Thanh sử cảo ghi là Trịnh Thế Ân), con trai thứ ba của Trịnh Chi Long, tự Ân Khánh.
  • Trịnh Ấm (Thanh sử cảo ghi là Trịnh Thế Ấm), con trai thứ tư của Trịnh Chi Long.
  • Trịnh Tập (Thanh sử cảo ghi là Trịnh Thế Tập), con trai thứ năm của Trịnh Chi Long, Hiệu Quỳ Am, đầu thời Khang Hy được bổ nhiệm làm Khâm mệnh Vinh lộc đại phu đầu đẳng kiêm Quản nội các đại thần.
  • Trịnh Thế Mặc (xem thêm Thanh sử cảo), con trai thứ sáu của Trịnh Chi Long, về sau bị giết cùng cha.

Con

nhỏ|Ngôi mộ an táng chung người con thứ 4 Trịnh Duệ cùng với người con thứ 10 Trịnh Phát của Trịnh Thành Công được xây dựng tại [[Phiên phủ nhị Trịnh công tử mộ ở khu Nam thành phố Đài Nam, đây là một trong số ít mộ cổ thời Minh Trịnh chưa bị nhà Thanh chuyển về Trung Quốc đại lục.]]

  • Trịnh Kinh, con trưởng Trịnh Thành Công, tự Nguyên Chi, hiệu Thức Thiên, biệt danh Cẩm, kế thừa tước vị Duyên Bình Quận vương, Chiêu Thảo đại tương quân của cha, theo ghi chép của Công ty Đông Ấn Anh quốc thì Trịnh Kinh tự xưng là "quốc vương Đài Loan".
  • Trịnh Thông, con thứ hai của Trịnh Thành Công, tự Triết Thuận, hiệu Di Đường, năm Khang Hy thứ 22, trao chức tam phẩm.
  • Trịnh Minh, con thứ ba của Trịnh Thành Công, tự Triết Hy, hiệu Hy Chi, Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
  • Trịnh Duệ, con thứ tư của Trịnh Thành Công, tự Triết Thánh, hiệu Thánh Chi, chết sớm.
  • Trịnh Trí, con thứ năm Trịnh Thành Công, tự Triết Tích, hiệu Tích Chi, năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
  • Trịnh Khoan, con thứ sáu của Trịnh Thành Công, tự Triết Thạc, hiệu Thạc Chi, không rõ tiểu sử chi tiết.
  • Trịnh Dụ, con thứ bảy của Trịnh Thành Công, tự Triết Ích, hiệu Ích Chi, năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
  • Trịnh Ôn, con thứ tám của Trịnh Thành Công, tự Triết Niệm, hiệu Niệm Trai, năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
  • Trịnh Nhu, con thứ chín của Trịnh Thành Công, tự Triết Năng, hiệu Năng Chi, năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
  • Trịnh Phát, con thứ mười của Trịnh Thành Công, tự Triết Phấn, hiệu Phấn Chi, chết sớm.

Cháu

  • Trịnh Khắc Tang, con trưởng Trịnh Kinh, cưới con gái Trần Vĩnh Hoa làm vợ, Khắc Tang ban đầu là người thừa kế vương vị họ Trịnh đầu tiên, nhưng đã bị Phùng Tích Phạm chủ mưu giết hại, mất khi chỉ mới mười sáu tuổi.
  • Trịnh Khắc Sảng, con thứ Trịnh Kinh, húy là Tần, tự Thực Hoằng, hiệu Hối Đường, cưới con gái của Phùng Tích Phạm làm vợ, kế thừa tước vị của cha làm Duyên Bình quận vương, Chiêu thảo đại tướng quân, vào năm 1683, đầu hàng nhà Thanh, kết thúc 21 năm thống trị của vương triều họ Trịnh tại Đài Loan.
  • Trịnh Khắc Cử, một người con khác của Trịnh Kinh, sau khi Trịnh Khắc Sảng hàng Thanh, đã dâng thư thỉnh cầu vua Khang Hy đề bạt Khắc Cử ra làm quan.

Hậu duệ

Nhà ngư loại học nổi tiếng Đài Loan Trịnh Thủ Nhượng (tên thật là Trịnh Minh Năng) là cháu đời thứ 9 của Trịnh Thành Công (con cháu của Trịnh Khoan, con trai thứ sáu của Trịnh Thành Công). Nhà thơ Trịnh Sầu Dư (tên thật là Trịnh Văn Thao) được coi là hậu duệ chính thức của Trịnh Thành Công.

Mộ táng và kỷ niệm

Mộ Trịnh Thành Công

nhỏ|Bia kỷ niệm mộ chí Trịnh Thành Công tại quận [[Vĩnh Khang thành phố Đài Nam.]] Sau khi Trịnh Thành Công qua đời được chôn cất ở Châu Tử Vĩ thuộc vùng ngoại ô Đài Nam (nay thuộc quận Vĩnh Khang), về sau Trịnh Khắc Sảng hàng Thanh dời về ở Bắc Kinh, có dâng tấu lên bày tỏ rằng: "Nhớ Đài Loan xa cách Minh Hải, giữ việc cúng tế ngày càng khó khăn, xin dời sang nội địa". Hoàng đế Khang Hy đối với chuyện này liền hạ chiếu: "Chu Thành Công tiếp nối di thần nhà Minh, không phải loạn thần tặc tử của trẫm. Nay ban sắc lệnh cho quan lại, hộ tống linh cữu hai cha con Thành Công trở về chôn ở Nam An, đặt người trông coi mồ mả và xây miếu thờ cúng". Vả lại vua còn ban tặng câu đối sau: "Bốn trấn hai lòng hai đảo nhiều gian nan dám hướng Đông Nam giành nửa tường, chư vương không một tấc đất vác chí vạn biết nước ngoài có cô trung".

Ngày 22 tháng 5 âm lịch năm 1699 (Năm Khang Hy thứ 38), di hài cha con Trịnh Thành Công, Trịnh Kinh được dời sang chôn ở núi Phú Thuyền thôn Khang Điếm huyện Nam An, tỉnh Phúc Kiến. Chôn chung trong phần mộ của ông tổ đời thứ bảy Trịnh Nhạc Trai. Cũng có thuyết nói rằng, vì muốn xoa dịu lòng phản Thanh bùng dậy trong dân chúng Đài Loan, mồ mả họ Trịnh tại Đài Loan tất cả đều được Thanh triều đào lên dời vào trong đất liền. Truyền thuyết dân gian kể rằng Trịnh Khắc Cử để cho Trịnh Thành Công được an nghỉ dưới đất, không còn bị quấy nhiễu, đã cho hộ tống linh cữu Trịnh Thành Công từ Bắc Kinh tới Cố Thủy an táng tại tế đường nhà họ Trịnh; mặt khác, nhằm ngăn chặn người khác dòm ngó, lại phái người em là Trịnh Khắc Cử tới Phúc Kiến khắc vào một mảnh bằng hàng chữ "Trịnh thị phụ táng tổ phụ mộ chí" (郑氏附葬祖父墓志), là tiếng gọi Trịnh Thành Công phụ táng tại "Trịnh thị Nhạc Trai công doanh trong mộ tổ" (郑氏乐斋公茔). Nhưng thuyết này chưa có chứng cứ cụ thể ủng hộ.

Miếu thờ tự

  • Cung Khai Nguyên ở Kê Khẩu, Gia Nghĩa
  • [http://sun.ontop.com.tw/index.htm Cung Tam Lão Gia ở phố Dụ Dân khu Bắc thành phố Đài Nam]
  • Đền Duyên Bình Quận vương và Trịnh Thành Công tổ miếu ở Đài Nam

Tên gọi kỷ niệm

  • Đài Loan hiện tại có ít trường học, đường phố, địa danh mang tên xưng hiệu hoặc tên người về Trịnh Thành Công, dùng để kỷ niệm, chẳng hạn như:

;Địa danh đường phố

  • Quận Duyên Bình thành phố Đài Bắc cũ
  • Làng Quốc Tính huyện Nam Đầu
  • Làng Duyên Bình huyện Đài Đông
  • Đường Nam Bắc Duyên Bình thành phố Đài Bắc
  • Đường Khai Sơn thành phố Đài Nam

;Trường học

  • Đại học Quốc gia Trịnh Thành Công (nguyên là Học viện Công lập tỉnh Đài Loan)
  • Trường Trung học Phổ thông Thành Công Đài Bắc (nguyên là trường cấp hai châu Đài Loan, Trung học Thành Công tỉnh Đài Loan)
  • Trường Trung học Phổ thông Duyên Bình Đài Bắc (nguyên là Học viện tư lập Duyên Bình) ;Số khác
  • Tàu khu trục lớp Thành Công, bao gồm tàu chiến Thành Công FFG-1101.

Ảnh hưởng văn hóa và số khác

phải|Tượng Trịnh Thành Công tại một pháo đài nhỏ ở An Bình, Đài Nam, Đài Loan Trịnh Thành Công được Hoa kiều thờ cúng như một vị thần ở miền duyên hải Trung Quốc, đặc biệt là ở Phúc Kiến, Đài Loan và Đông Nam Á. Người dân địa phương còn cho xây dựng miếu thờ có dựng tượng ông và mẹ ông tại thành phố Đài Nam, Đài Loan.

Vở kịch Quốc Tính gia hợp chiến () do Chikamatsu Monzaemon viết tại Nhật Bản vào thế kỷ XVIII được trình diễn lần đầu tại Kyoto. Một bộ phim điện ảnh vào năm 2001 có tên là Trịnh Thành Công ( 1661) do diễn viên Triệu Văn Trác đóng vai Trịnh Thành Công. Phim còn được đổi tên thành Kokusen'ya Kassen () sau vở kịch đã nói trên và phát hành tại Nhật Bản vào năm 2002.

Trong chính trị, Trịnh Thành Công là một nhân vật thú vị bởi vì một số lực lượng chính trị đối lập đã gọi ông là anh hùng. Vì lý do này, những bài tường thuật lịch sử liên quan đến ông thường xuyên khác nhau trong việc giải thích động cơ và liên kết của mình.

Ông được xem là anh hùng dân tộc tại Trung Quốc đại lục bởi vì ông đã đánh đuổi người Hà Lan ra khỏi Đài Loan và thiết lập chính quyền do người Trung Quốc cai trị trên hòn đảo.

Trong Thời kỳ Nhật Bản kiểm soát Đài Loan, Trịnh Thành Công được vinh danh như một cầu nối giữa Đài Loan và Nhật Bản để liên kết bà mẹ của ông đến Nhật Bản.

Quốc Dân Đảng Trung Quốc coi ông như một người yêu nước rút về Đài Loan và sử dụng nó như một căn cứ để khởi động phản công chống lại nhà Thanh ở Trung Quốc đại lục. Như vậy, những người Quốc gia thường so sánh ông với lãnh đạo của họ là Tưởng Giới Thạch.

Những người ủng hộ Đài Loan độc lập đã cảm kích trước Trịnh Thành Công. Những người ủng hộ độc lập Đài Loan gần đây cho rằng ông là một biểu tượng tích cực, mô tả ông như một anh hùng bản địa Đài Loan tìm cách giữ cho Đài Loan độc lập từ chính phủ Trung Quốc đại lục.

Trịnh Thành Công coi Đài Loan luôn là một phần của Trung Quốc, khi ông đang đàm phán với người Hà Lan, ông cảnh báo họ rằng họ đã vào lãnh thổ Trung Quốc, trước khi họ bị trục xuất khỏi Đài Loan.

Ông là một trong số 32 nhân vật lịch sử xuất hiện trong trò chơi điện tử Romance of the Three Kingdoms XI của hãng Koei.

Trong thời hiện đại, Trịnh Thành Công được coi là một anh hùng tại Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản vì nhiều lý do khác nhau.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trịnh Thành Công** () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là **Sâm**, tự là **Minh Nghiễm **hay** Đại Mộc**, hay còn được biết đến với tên gọi khác
**Trịnh Thanh công** (chữ Hán: 鄭聲公; trị vì: 500 TCN–463 TCN), tên thật là **Cơ Thắng** (姬勝), là vị vua thứ 19 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Thành công** (chữ Hán: 鄭成公; trị vì: 584 TCN–571 TCN), tên thật là **Cơ Hỗn** (姬睔). Thành công trở lại ngôi vua. ## Bỏ Tấn theo Sở Từ khi trở lại theo Tấn, Trịnh
**Đại học Thành Công Quốc lập** (**Thành Đại**; chữ Hán phồn thể: 國立成功大學/成大; bính âm: Guólì Chénggōng Dàxué; phiên âm bạch thoại: Kok-li̍p Sêng-kong Tāi-ha̍k) là trường đại học nghiên cứu công lập ở Đài
**Trịnh Thành Công** trong Tiếng Việt có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Trịnh Thành công (鄭成公), quân chủ thứ 13 của nước Trịnh thời Xuân Thu *Triều Vũ Vương
**Trịnh Li công** hay **Trịnh Hi công** (chữ Hán: 鄭釐公 hay 鄭僖公; trị vì: 570 TCN–566 TCN), tên thật là **Cơ Uẩn** (姬恽), hay còn gọi là **Cơ Khôn Ngoan** (姬髡顽), là vị vua thứ
Trước 10 Tuổi - Thời Kỳ Vàng Quyết Định Thành Công Của Trẻ Cuốn sách trình bày 7 phẩm chất thành công Suy nghĩ tích cực, bồi dưỡng sáng tạo, suy nghĩ độc lập, AQ,
**Trịnh Ai công** (chữ Hán: 鄭哀公; trị vì: 462 TCN–455 TCN), tên thật là **Cơ Dịch** (姬易), là vị vua thứ 20 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Hiến công** (chữ Hán: 鄭獻公; trị vì: 513 TCN–501 TCN), tên thật là **Cơ Mãi** (姬躉) hay **Cơ Độn**, là vị vua thứ 18 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch
**Trịnh Điệu công** (chữ Hán: 鄭悼公; trị vì: 586 TCN–585 TCN), tên thật là **Cơ Phí** (姬沸), là vị vua thứ 12 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Văn công** (chữ Hán: 鄭文公; trị vì: 673 TCN–628 TCN), tên thật là **Cơ Tiệp** (姬踕), là vị vua thứ tám của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Giản công** (chữ Hán: 鄭簡公; sinh 570 TCN, trị vì: 565 TCN–530 TCN), tên thật là **Cơ Gia** (姬嘉), là vị vua thứ 16 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch
**Trịnh Trang công** (chữ Hán: 鄭莊公; 757 TCN – 701 TCN), tên thật là **Cơ Ngụ Sinh** (姬寤生), là vị vua thứ ba của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Trịnh Tương công** (chữ Hán: 鄭襄公; trị vì: 604 TCN–587 TCN), tên thật là **Cơ Tử Kiên** (姬子堅), là vị vua thứ 11 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Trinh Ý Công chúa **(貞懿公主, 1415 - 11 tháng 2, 1477) là công chúa nhà Triều Tiên, vương thứ nữ của Triều Tiên Thế Tông và Chiêu Hiến Vương hậu Thẩm thị, em gái của
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
**Trinh Thuận Công chúa **(貞順公主, 1385 - 1460) là công chúa nhà Triều Tiên, trưởng nữ của Triều Tiên Thái Tông và Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (閔氏). Định Tông năm thứ nhất, 1399,
**Nhà máy sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam** nằm tại Khu công nghiệp Gián Khẩu, tỉnh Ninh Bình. Nhà máy trực thuộc Tập đoàn Thành Công, hiện đang sản xuất, lắp ráp
Hành trình ngàn dặm luôn được bắt đầu từ bước đi đầu tiên. Và hành trình đến với kỹ năng thuyết trình thành công của bạn nên được bắt đầu từ quyển sách này. Đây
**Trịnh Lệ công** (chữ Hán: 鄭厲公, ?–673 TCN, trị vì: 700 TCN–697 TCN và 679 TCN–673 TCN), tên thật là **Cơ Đột** (姬突), là vị vua thứ năm của nước Trịnh – chư hầu nhà
**Trịnh Mục công** (chữ Hán: 鄭穆公; 649 TCN – 606 TCN), còn gọi là **Trịnh Mâu công** (鄭繆公), tên thật là **Cơ Tử Lan** (姬子蘭), là vị vua thứ chín của nước Trịnh - chư
**Trịnh Linh công** (chữ Hán: 鄭靈公/郑灵公; trị vì: 606 TCN–605 TCN), hay **Trịnh U công**, tên thật là **Cơ Tử Di** (姬子夷), là vị vua thứ 10 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu
**Trinh Minh Công chúa **(貞明公主, 27 tháng 6 năm 1603 - 8 tháng 9 năm 1685) là công chúa, Vương tộc nhà Triều Tiên, đích trưởng nữ của Triều Tiên Tuyên Tổ, mẹ là Nhân
**Trịnh Thanh Thiệp** (1930 - 2020) là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông nguyên là Phó Tổng cục trưởng thường trực Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an Việt
**Trịnh Khang công** (chữ Hán: 郑康公; trị vì: 395 TCN–375 TCN), tên thật là **Cơ Ất** (姬乙), là vị vua thứ 24 và cũng là vị vua cuối cùng của nước Trịnh – chư hầu
**Trịnh Hoàn công** (chữ Hán: 鄭桓公; trị vì: 806 TCN–771 TCN), tên thật là **Cơ Hữu** (姬友), là vị vua đầu tiên của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Vũ công** (chữ Hán: 鄭武公; trị vì: 771 TCN–744 TCN), tên thật là **Cơ Quật Đột** (姬掘突), là vị vua thứ hai của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Bùi Quang Thanh** (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1977 tại xã Nam Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) là tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ
**Thành Công** (chữ Hán: 成公 hoặc 城公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Chu Tề Thành công * Đông Chu Vệ Thành công * Đông Chu Tấn
**Thành Cộng Hòa** là một địa danh tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, đây là khu vực tương ứng với diện tích gồm Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
**Thanh Công** (chữ Hán: 聲公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và tướng lĩnh quan lại thời phong kiến. ## Quân chủ * Đông Chu Vệ Thanh công (có thụy hiệu khác
**Phúc Thanh Công chúa** (chữ Hán: 福清公主; 1370 – 28 tháng 2 năm 1417), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh.
nhỏ|Vị trí tại Đài Đông **Thành Công** () là một trấn của huyện Đài Đông, tỉnh Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Thành Công có một dài đồng bằng hẹp ở ven biển,
**Trịnh Kinh** (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên **Cẩm**, tự **Hiền Chi**, **Nguyên Chi**, hiệu **Thức Thiên**, biệt danh **Cẩm Xá**, là con trưởng của
**Trịnh Chi Long** (; 16 tháng 4 năm 1604 – 24 tháng 11 năm 1661), hiệu **Phi Hồng**, **Phi Hoàng**, tiểu danh **Iquan**, tên Kitô giáo là **Nicholas** hoặc **Nicholas Iquan Gaspard**, người làng Thạch
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**_2 ngày 1 đêm_** (viết tắt: **_2N1Đ_**) là chương trình truyền hình trải nghiệm thực tế do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Đông Tây Promotion phối hợp thực hiện,
**Trịnh** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này tương đối phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc (giản thể: 郑, Bính âm: Zhèng, Wade-Giles: Cheng) và Triều Tiên
Hãy khám phá lĩnh vực Nghiên cứu tình huống thành công về tư duy thiết kế để khám phá sức mạnh của phương pháp giải quyết vấn đề sáng tạo này. Hãy khám phá lĩnh
Hãy khám phá lĩnh vực Nghiên cứu tình huống thành công về tư duy thiết kế để khám phá sức mạnh của phương pháp giải quyết vấn đề sáng tạo này. Bắt đầu bằng cách
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Lỗ Thành công** (chữ Hán: 魯成公, trị vì 590 TCN-573 TCN), tên thật là **Cơ Hắc Quăng** (姬黑肱), là vị quốc quân thứ 22 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
Chỉ số khởi nghiệp của DocSend khám phá những xu hướng thay đổi trong số các nhà đầu tư mạo hiểm. Trong số những phát hiện, dữ liệu cho thấy các nhà đầu tư hiện
**Augustinô thành Hippo** (tiếng Latinh: _Aurelius Augustinus Hipponensis_; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, _Augoustinos Hippōnos_; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là **Thánh Augustinô** hay **Thánh Âu Tinh**, là một
**Thập toàn võ công** hay **Thập đại chiến dịch** () là một thuật ngữ do triều đình nhà Thanh đặt ra để chỉ 10 chiến dịch quân sự lớn dưới thời hoàng đế Càn Long
**Trịnh quân Nhu** (chữ Hán: 郑君繻; trị vì: 581 TCN-581 TCN, tên thật là **Cơ Nhu** (姬 繻) là vị vua thứ 14 của nước Trịnh, chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Số hóa doanh nghiệp không đơn giản chỉ là việc mua phần mềm quản lý về sử dụng. Nếu chỉ dừng lại ở đó, việc số hóa của doanh nghiệp chắc chắn sẽ gặp thất
**Bùi Văn Thành** (sinh năm 1958) nguyên là một sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, cấp hàm Đại tá. Ông là cựu Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Ủy viên
**Vệ Thành công** (衛成公, trị vì 635 TCN-600 TCN), tên thật là **Cơ Trịnh** (姬鄭), là vị quân chủ thứ 21 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc ##