✨Trịnh Văn công

Trịnh Văn công

Trịnh Văn công (chữ Hán: 鄭文公; trị vì: 673 TCN–628 TCN), tên thật là Cơ Tiệp (姬踕), là vị vua thứ tám của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Trịnh Văn công là con của Trịnh Lệ công – vua thứ 5 nước Trịnh, cháu gọi Trịnh Tử Vĩ và Trịnh Tử Anh – các vua thứ 6 và thứ 7 nước Trịnh – bằng chú. Năm 673 TCN, Trịnh Lệ công qua đời, Cơ Tiệp lên nối ngôi, tức là Trịnh Văn công..

Giữa Tề và Sở

Năm 666 TCN, quan lệnh doãn nước Sở là Tử Nguyên mang quân đánh nước Trịnh, đến cửa Cốc Trất. Nước Tống cử binh cứu Trịnh. Tử Nguyên thấy vậy bèn nhân đêm tối rút quân.

Năm 660 TCN, Trịnh Văn công ghét tướng Cao Khắc, bèn sai mang quân trấn thủ Cát Thượng, lâu ngày không triệu về. Quân của Khắc tự tan, bỏ trốn. Cao Khắc bèn bỏ trốn sang nước Tần.

Năm 659 TCN, Sở Thành vương mang quân đánh Trịnh. Tề Hoàn công đang là bá chủ chư hầu bèn hội các nước Lỗ, Tống, Tào, Châu tại đất Sanh để cứu Trịnh. Quân Sở rút lui.

Năm 658 TCN, Sở Thành vương lại đánh Trịnh, tướng Sở là Đấu Chương bắt được tướng Trịnh là Trịnh Đam Bá. Sang năm 657 TCN, Trịnh Văn công muốn cùng giảng hòa với nước Trịnh, nhưng Khổng Thúc can không nên mà nên tiếp tục theo Tề. Năm 656 TCN, Tề Hoàn công hội chư hầu các nước Lỗ, Tống, Trần, Vệ, Hứa, Tào cùng đánh nước Sái và Sở để cứu Trịnh. Sở Thành vương phải sai Khuất Hoàn đi giảng hòa.

Năm 655 TCN, Trịnh Văn công lại đi hội chư hầu với Tề Hoàn công và các nước Lỗ, Tống, Trần, Vệ, Hứa, Tào tại đất Thủ Chỉ. Giữa chừng, Trịnh Văn công sợ nước Sở, muốn trốn về không dự thề. Khổng Thúc can ngăn nhưng ông không nghe, cuối cùng bỏ thề trốn về nước.

Năm 654 TCN, Tề Hoàn công giận Trịnh Văn công bỏ hội, liền cùng quân các nước Lỗ, Tống, Vệ và Tào đi đánh Trịnh, kéo đến Tân Thành. Mùa thu năm đó, Sở Thành vương mang quân đánh nước Hứa để cứu Trịnh. Tề Hoàn công và các chư hầu mang quân sang nước Hứa. Nước Trịnh được giải vây, quân Sở cũng lui về.

Năm 653 TCN, Tề Hoàn công lại cất quân đánh Trịnh. Trước sức ép của Tề Hoàn công, Trịnh Văn công giết đại phu Thân Hầu, sau đó cử thế tử Hoa đi dự thề với vua Tề. Sang năm 652 TCN, tự Trịnh Văn công phải đi dự thề. Từ đó nước Trịnh ngả theo Tề, thường xuyên dự các lần họp chư hầu.

Theo Sở chống Tống

Sau khi Tề Hoàn công mất, nước Tề suy yếu. Trịnh lại theo Sở. Năm 643 TCN, Trịnh Văn công đến triều kiến Sở Thành vương. Năm 639 TCN, Trịnh Văn công hội minh với Sở Thành vương, nước Trần và nước Sái chống Tống, bắt Tống Tương công.

Tống Tương công sau đó được Sở Thành vương thả về nước. Năm 638 TCN, vua Tống hội binh với các nước Vệ, Hứa, Đằng đánh Trịnh. Trịnh Văn công cầu cứu Sở. Sở Thành vương mang quân cứu, đánh tan quân Tống ở đất Hoằng.

Quan hệ với nhà Chu

Trịnh Văn công đánh nước Hoạt vì ngả theo nước Vệ. Nước Hoạt xin giảng hòa. Quân Trịnh bèn rút lui, thì nước Hoạt lại theo nước Vệ. Trịnh công tử là Sĩ Huệ cùng tướng Đỗ Chu Di lại đánh Hoạt lần nữa. Chu Tương Vương sai Bá Phục và Du Tôn Bá sang nước Trịnh xin hộ cho nước Hoạt. Trịnh Văn công giận thiên tử nhà Chu, từ khi Trịnh Lệ công có công cứu Chu Huệ Vương phục ngôi mà không được phong thưởng, nên bắt giữ 2 sứ giả nhà Chu.

Năm 637 TCN, Chu Tương vương giận dữ bèn sai sứ mượn quân nước Địch vào đánh Trịnh. Quân nước Địch tiến vào đánh Trịnh, chiếm đất Lịch. Để thắt chặt quan hệ, vua Chu lấy con gái nước Địch làm vương hậu.

Năm 636 TCN, Chu Tương vương không bằng lòng với Địch vương hậu bèn phế truất. Nước Địch bất bình bèn mang quân đánh Chu. Chu Tương vương không chống nổi phải bỏ chạy sang nước Trịnh. Trịnh Văn công giận thiên tử, bèn an trí tại Phạm Thành, không cử binh giúp. Sau đó Chu Tương Vương phải nhờ tới Tấn Văn công giúp mới phục được ngôi vua.

Giữa Tấn và Sở

Năm 637 TCN, công tử Trùng Nhĩ nước Tấn (con trưởng Tấn Hiến công) lưu vong đến nước Trịnh, Trịnh Văn công tỏ ra coi thường không tiếp đãi. Em ông là Thúc Thiêm can ngăn rằng Trùng Nhĩ là người hiền, không thể vô lễ nhưng ông không nghe, cho rằng các công tử các nước đến nước Trịnh quá nhiều không thể tiếp đãi hết, Thúc Thiêm lại khuyên nếu không tiếp đãi tử tế thì nên giết Trùng Nhĩ đi nhưng ông không nghe. Sau Trùng Nhĩ về nước lên ngôi tức Tấn Văn công.

Năm 634 TCN, Tấn và Sở nổ ra chiến tranh để giành quyền bá chủ. Trịnh Văn công ngả theo Sở, cùng Sở Thành vương và các nước Trần, Sái, Hứa đi đánh nước Tống – đồng minh của Tấn. Tống Thành công cầu viện Tấn.

Tấn Văn công mang quân cứu Tống và đánh bại quân Sở trong trận Thành Bộc năm 632 TCN. Trịnh Văn công nghe tin Sở bị Tấn đánh bại, bèn sai sứ đến xin quy phục nước Tấn. Tấn Văn công đồng ý cho Trịnh giảng hòa.

Tuy được giảng hòa nhưng nước Trịnh vẫn bị Tấn Văn công ghét vì khi còn là công tử Trùng Nhĩ đi lưu lạc, Trịnh Văn công không đón tiếp Trùng Nhĩ. Vì vậy năm 630 TCN, Tấn Văn công cùng Tần Mục công mang quân đánh Trịnh. Nước Trịnh bị vây hãm. Đại phu nước Trịnh là Thúc Thiêm phải tự sát để lấy lòng nước Tấn nhưng Tấn Văn công vẫn đòi bắt Trịnh Văn công.

Nghe theo lời đại phu Dật Chi Hồ, Trịnh Văn công bèn sai Chúc Chi Vũ làm sứ đến gặp Tần Mục công, phân tích lợi hại: đánh Trịnh chỉ làm tăng uy thế của Tấn, không lợi gì cho Tần. Tần Mục công bèn tự mình rút quân. Tấn Văn công vây Trịnh không hạ được cũng bãi binh về nước.

Qua đời

Trịnh Văn công có người vợ yêu là Yên Cật, sinh được con là Cơ Lan. Ông lập Lan làm thế tử.

Năm 628 TCN, Trịnh Văn công qua đời. Ông ở ngôi được 45 năm. Thế tử Cơ Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công.

Gia quyến

  • Vợ: Yên Cật, sinh thế tử Lan. Năm 649 TCN, Yên Cật khi đó là thiếp của Trịnh Văn công nằm mộng thấy hoa lan, nói với Trịnh Văn công. Ông cho là điềm tốt, từ đó sủng ái Yên Cật. Ít lâu sau Yên Cật sinh một người con trai, Trịnh Văn công yêu mến, đặt tên là Lan. Vợ cũ của Trịnh Tử (một người chú, em của Lệ công, không rõ tên), sinh ra Tử Hoa và Tử Tang Giang thị: sinh Tử Sĩ Tô thị, sinh ra Tử Hà và Tử Du Di
  • Con trai: Cơ Lan: tức Trịnh Mục công Cơ Tử Hoa: bị Văn công giết Cơ Tử Tang: cũng bị Văn công giết Cơ Tử Sĩ: bị vua Sở giết khi đi sứ Cơ Tử Hà: Bị đuổi chạy khỏi nước Cơ Tử Du Di: chết non Cơ Tống Cơ Quy Sinh
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trịnh Văn công** (chữ Hán: 鄭文公; trị vì: 673 TCN–628 TCN), tên thật là **Cơ Tiệp** (姬踕), là vị vua thứ tám của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Mục công** (chữ Hán: 鄭穆公; 649 TCN – 606 TCN), còn gọi là **Trịnh Mâu công** (鄭繆公), tên thật là **Cơ Tử Lan** (姬子蘭), là vị vua thứ chín của nước Trịnh - chư
**Trịnh Lệ công** (chữ Hán: 鄭厲公, ?–673 TCN, trị vì: 700 TCN–697 TCN và 679 TCN–673 TCN), tên thật là **Cơ Đột** (姬突), là vị vua thứ năm của nước Trịnh – chư hầu nhà
**Công trình văn hóa**, hiểu theo nghĩa đen, là các thiết chế xây dựng được kiến tạo để phục vụ cho các hoạt động văn hoá, thông tin, tuyên truyền. Các công trình này được
**Giuse Maria Trịnh Văn Căn** (19 tháng 3 năm 1921 – 18 tháng 5 năm 1990) là một hồng y và dịch giả Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là Tổng giám mục thứ
**Trịnh Văn Quyết** (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1975) từng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn FLC kiêm Chủ tịch hãng hàng không Bamboo Airways. Giá trị
**Trịnh Thành Công** () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là **Sâm**, tự là **Minh Nghiễm **hay** Đại Mộc**, hay còn được biết đến với tên gọi khác
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Trịnh Văn Chiến** (sinh ngày 15 tháng 1 năm 1960) là một quan chức Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa nhiệm kì 2011-2016, 2016-2021, nguyên Chủ tịch
**Vệ Văn công** (chữ Hán: 衞文公; trị vì: 659 TCN-635 TCN), tên thật là **Cơ Hủy** (姬燬), là vị vua thứ 20 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Trang công** (chữ Hán: 鄭莊公; 757 TCN – 701 TCN), tên thật là **Cơ Ngụ Sinh** (姬寤生), là vị vua thứ ba của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Trịnh Văn Kiệm** (sinh năm 1947, mất năm 2012) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. ## Tiểu sử Trịnh Văn Kiệm sinh năm 1947, quê quán tại xã
**Trình Văn Thống** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Việt Nam).
**Trinh Ý Công chúa **(貞懿公主, 1415 - 11 tháng 2, 1477) là công chúa nhà Triều Tiên, vương thứ nữ của Triều Tiên Thế Tông và Chiêu Hiến Vương hậu Thẩm thị, em gái của
**Trịnh Chiêu công** (chữ Hán: 鄭昭公; trị vì: 701 TCN và 697 TCN–695 TCN), tên thật là **Cơ Hốt** (姬忽), là vị vua thứ tư của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch
**Trịnh Văn Thanh** là Giáo sư ngành khoa học an ninh, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân, Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại
**Trinh Thuận Công chúa **(貞順公主, 1385 - 1460) là công chúa nhà Triều Tiên, trưởng nữ của Triều Tiên Thái Tông và Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (閔氏). Định Tông năm thứ nhất, 1399,
**Trịnh Văn Vinh** (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1995 tại Bắc Ninh) là một vận động viên cử tạ người Việt Nam. Trong sự nghiệp, Trịnh Văn Vinh từng giành huy chương vàng châu
**Trinh Minh Công chúa **(貞明公主, 27 tháng 6 năm 1603 - 8 tháng 9 năm 1685) là công chúa, Vương tộc nhà Triều Tiên, đích trưởng nữ của Triều Tiên Tuyên Tổ, mẹ là Nhân
**Trịnh Thanh công** (chữ Hán: 鄭聲公; trị vì: 500 TCN–463 TCN), tên thật là **Cơ Thắng** (姬勝), là vị vua thứ 19 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Li công** hay **Trịnh Hi công** (chữ Hán: 鄭釐公 hay 鄭僖公; trị vì: 570 TCN–566 TCN), tên thật là **Cơ Uẩn** (姬恽), hay còn gọi là **Cơ Khôn Ngoan** (姬髡顽), là vị vua thứ
**Trịnh Khang công** (chữ Hán: 郑康公; trị vì: 395 TCN–375 TCN), tên thật là **Cơ Ất** (姬乙), là vị vua thứ 24 và cũng là vị vua cuối cùng của nước Trịnh – chư hầu
**Trịnh Văn Khải** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Việt Nam). ## Tiểu sử Năm 2009,
**Văn Công Viễn** (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1983) là một đạo diễn phim, nhà biên kịch phim, nhà sản xuất phim Việt Nam. Đạo diễn Văn Công Viễn thuộc nguyên quán Quảng Nam,
_Xem thêm_: Văn công (định hướng) **Văn Công** (chữ Hán: 文公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách # Tây Chu Chu Văn công # Tây Chu Đằng Văn công
**Trịnh Văn Bô** (1914-1988) là một thương nhân Việt Nam giữa thế kỷ XX. Ông là nhà tư sản theo chủ nghĩa dân tộc, từng ủng hộ cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt
**Tống Văn công** (chữ Hán: 宋文公, ?-589 TCN, trị vì 611 TCN-589 TCN), tên thật là **Tử Bão Cách** (子鮑革) hay **Tử Bão** (子鮑), là vị vua thứ 24 của nước Tống - chư hầu
**Trịnh** (Phồn thể: 鄭國; giản thể: 郑国) là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ quốc gia này nằm trên tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện
**Lỗ Văn công** (chữ Hán: 魯文公, trị vì 626 TCN-609 TCN), tên thật là **Cơ Hưng** (姬興), là vị vua thứ 20 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Văn Bính** (1910 – 1985) là nhà quản lý tài chính, sau Cách mạng Tháng Tám là người đề ra chính sách tài chính thuế khóa của Chính quyền cách mạng, đã giữ các
**Trịnh Vân Long** (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1990) là nam diễn viên nhạc kịch người Trung Quốc, nổi tiếng với khán giả đại chúng khi chiến thắng tại show truyền hình thực tế
Báo cáo quá trình vận động thành lập của Hội Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo tỉnh Kiên Giang lần thứ I.Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) đang là chủ đề nhận được nhiều
Báo cáo quá trình vận động thành lập của Hội Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo tỉnh Kiên Giang lần thứ I.Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) đang là chủ đề nhận được nhiều
**Tào Văn công** (chữ Hán: 曹文公; trị vì: 617 TCN-595 TCN), tên thật là **Cơ Thọ** (姬壽), là vị vua thứ 17 của nước Tào – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trịnh Văn Quyết** (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1966) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tướng. Ông hiện là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Địa chỉ: Số 135/41, Đồng Văn Cống, Phường An Thới, Quận Bình Thuỷ, Thành phố Cần Thơ, Việt Nam Email: [email protected] Điện thoại: 0888 099 960 Mã số thuế: 1801601501 Website: https://www.kba2018.vn/ Ngày thành lập:
**Trinh Huệ Công Chúa** (_chữ Hán_:貞惠公主) là thụy hiệu của một vị công chúa trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông ## Danh sách *Bột Hải quốc Trinh Huệ công
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Phan Châu Trinh** hay **Phan Chu Trinh** (chữ Hán: 潘周楨; 1872 – 1926), hiệu là **Tây Hồ** (西湖), biệt hiệu **Hy Mã** (希瑪), tự là **Tử Cán** (子幹). Ông là nhà thơ, nhà văn, và
**Trịnh Công Sơn** (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nam nhạc sĩ người Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của tân
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Trịnh Giang** (chữ Hán: 鄭杠, 14 tháng 10 năm 1711 – 30 tháng 12 năm 1762), còn có tên khác là **Trịnh Khương** (鄭橿), hay **Trịnh Cường**, thụy hiệu là **Dụ Tổ Thuận vương** (裕祖順王),
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng