✨Tấn Văn công

Tấn Văn công

Tấn Văn công (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là Cơ Trùng Nhĩ (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 636 TCN đến năm 628 TCN, tổng cộng 8 năm.

Tấn Văn công có một sự nghiệp hết sức đáng chú ý, lưu vong 19 năm, được các thủ hạ Triệu Thôi (赵衰; tiên tổ nước Triệu), Hồ Uyển (狐偃), Cổ Đà (贾佗), Tiên Chẩn (先轸), Ngụy Vũ tử (魏武子; tiên tổ nước Ngụy); sau ông trở về lên ngôi vua nước Tấn, tạo nên nền móng cơ sở sự hùng mạnh của nước Tấn trong cả thế kỉ về sau. Cũng từ ông, mà các tiên tổ nước Triệu, nước Ngụy và nước Hàn dần có thế lực, kết quả là tạo nên 3 quốc gia Tam Tấn nổi tiếng thời Chiến Quốc.

Vì sự nghiệp rạng rỡ và đầy tính huyền thoại, được xếp vào trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, được sử sách nhắc tới nhiều.

Thân thế

Tấn Văn công là con trai trưởng của Tấn Hiến công, vua thứ 19 nước Tấn. Mẹ ông là Hồ Quý cơ (狐季姬) người nước Địch, vốn là thiếp của Hiến công, sinh ra ông năm 697 TCN. Cơ Trùng Nhĩ lớn lên khi ông nội là Tấn Vũ công đang phát triển lực lượng ở Khúc Ốc, nhiều lần tiến về đất Dực tranh ngôi vua Tấn với chi trưởng chưa thành công.

Khi còn trẻ, Trùng Nhĩ đã tỏ ra kính trọng kẻ sĩ, được nhiều người quý mến theo giúp. Năm 17 tuổi (681 TCN), ông đã có 5 kẻ sĩ theo phò tá là Triệu Thôi, Hồ Yển, Giả Đà, Tiên Chẩn và Ngụy Sưu.

Năm 679 TCN, Tấn Vũ công đánh diệt Tấn hầu Dẫn, trở thành quốc chủ của toàn nước Tấn. Cha Trùng Nhĩ là Cơ Quỹ Chư được lập làm Thế tử, lúc đó Trùng Nhĩ đã trưởng thành. Năm 677 TCN, Tấn Vũ công qua đời, cha ông lên ngôi, sử gọi là Tấn Hiến công. Năm đó Trùng Nhĩ đã được 21 tuổi.

Thời Tấn Hiến công

:Xem thêm: Cơ Thân Sinh Trùng Nhĩ tuy về mặt thứ tự là con trai trưởng nhưng mẹ ông không phải là vợ chính của vua cha. Cho nên con trai phu nhân Tề Khương là Thân Sinh, tuy chỉ là con thứ 3 nhưng lại được lập làm Thế tử do mang thân phận là đích tử (con của chính thất).

Năm 672 TCN, Tấn Hiến công sủng ái chị em Ly Cơ người nước Nhung, phong làm phu nhân thay mẹ Thân Sinh đã qua đời. Năm 665 TCN, Ly Cơ sinh con trai là Hề Tề. Hiến công có ý định phế Thân Sinh để cho Hề Tề lên thay. Vì các con Trùng Nhĩ, Di Ngô và Thân Sinh đã lớn mà Hề Tề còn nhỏ nên chưa tiện thay ngôi, Hiến công bèn tính kế đưa con lớn đi trấn thủ ở ngoài, sai Trùng Nhĩ đi trấn thủ thành Bồ gần biến giới phía bắc, sai Thân Sinh trấn thủ đất Khúc Ốc và sai Di Ngô trấn thủ đất Khuất.

Năm 655 TCN, Hiến công nghe lời gièm pha của Ly Cơ, bèn giết Thân Sinh và lập Hề Tề làm Thế tử. Trùng Nhĩ và Di Ngô đang đến Giáng đô thăm cha, cũng bị Ly Cơ gièm pha, sợ hãi vội bỏ chạy về đất trấn thủ là ấp Bồ và ấp Khuất lo cố thủ.

Tấn Hiến công giận hai con lớn bỏ đi vô phép bèn điều quân đánh đất Bồ và đất Khuất. Bột Đề đánh đất Bồ, định bắt Trùng Nhĩ tự sát nhưng ông kịp vượt tường bỏ trốn. Bột Đề đuổi theo chém với theo, đứt vạt áo Trùng Nhĩ. Ông chạy thoát sang quê mẹ ở đất Địch. Nhiều người nước Tấn mến mộ ông bèn bỏ nước Tấn chạy theo phò tá ông.

Lưu lạc

Ở nước Địch

Năm 652 TCN, sau khi đuổi Di Ngô sang đất Lương, Tấn Hiến công lại đánh nước Địch để truy kích Trùng Nhĩ nhằm bảo vệ ngôi Thế tử sau này cho Hề Tề. Nước Địch là quê mẹ Trùng Nhĩ, vì Trùng Nhĩ mà mang quân ra chống cự quân Tấn ở Nghiết Tang. Quân Tấn không thắng được phải rút lui.

Người nước Địch đánh bộ tộc Cao Như, bắt được 2 người con gái là Quý Ngỗi và Thúc Ngỗi, bèn gả Quý Ngỗi cho Trùng Nhĩ, Thúc Ngỗi cho Triệu Thôi. Ông sinh được 2 người con ở đất Địch.

Năm 651 TCN, vua cha Tấn Hiến công qua đời. Đại phu Lý Khắc giết cả Hề Tề và Trác Tử cùng người phụ chính là Tuân Tức, rồi cùng Bì Trịnh sai sứ đi mời Trùng Nhĩ về làm vua. Tuy nhiên ông sợ vây cánh những người chống đối còn đông nên thác cớ bất hiếu không để tang cha mà từ chối trở về.

Lý Khắc và Bì Trịnh bèn mời Di Ngô về lập làm vua mới, tức là Tấn Huệ công. Năm 644 TCN, Tấn Huệ công kết oán với nước Tần và người các đại phu trong nước, sợ mọi người rước Trùng Nhĩ về, nên lại sai Bột Đề đi cùng một tráng sĩ ám sát ông. Có người báo tin cho Trùng Nhĩ, ông bèn bỏ nước Địch chạy sang nước Tề.

Ở nước Tề

Trên đường qua nước Vệ, ông được Vệ Văn công đón tiếp. Sau những ngày bị đói dọc đường, ông tới được nước Tề nương nhờ bá chủ Tề Hoàn công. Tại nước Tề, Trùng Nhĩ được Tề Hoàn công hết sức trọng vọng và gả một người con gái trong họ là nàng Tề Khương cho làm vợ.

Năm 643 TCN, Tề Hoàn công mất, các con tranh giành ngôi vua, trong nước biến loạn. Triệu Thôi và Cữu Phạm bàn nhau đưa Trùng Nhĩ đi nơi khác, nhưng ông quá yêu Tề Khương không muốn rời. Người hầu của Tề Khương nghe trộm được ý định của Triệu Thôi, bèn báo cho Tề Khương. Tề Khương bèn khuyên ông lên đường lo sự nghiệp, nhưng Trùng Nhĩ chỉ muốn ở lại với Tề Khương. Tề Khương bèn bàn với Triệu Thôi chuốc rượu cho Trùng Nhĩ say và đưa lên xe đi khỏi nước Tề.

Đến nước Sở

Xe của Trùng Nhĩ qua nước Tào. Tào Cung công đối xử không tốt với ông nhưng ông được đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ chu cấp.

Đến nước Tống, ông được Tống Tương công coi trọng, nhưng vì nước Tống vừa bị nước Sở đánh cho thua lớn trong trận chiến giành quyền bá chủ nên nước Tống không thể giúp được ông.

Trùng Nhĩ bèn chạy sang nước Trịnh. Trịnh Văn công không đón tiếp, ông đành chạy sang nước Sở. Sở Thành vương vừa thắng nước Tống, rất trọng thị ông. Sở Thành vương mở yến tiệc thiết đãi, hỏi ông rằng sau này sẽ báo đáp nước Sở thế nào, Trùng Nhĩ trả lời rằng: :"Nếu hai nước phát sinh chiến tranh, nước Tấn sẽ lui nhường nước Sở 3 xá"

Đại tướng nước Sở là Thành Đắc Thần nghe thấy câu trả lời này đã đoán trước được chí lớn của Trùng Nhĩ và đề nghị Sở Thành vương ra tay trước giết công tử để trừ hậu họa, tuy nhiên Sở vương đã từ chối độc kế này của Thành Đắc Thần.

Về nước

Lần thứ nhất

Nước Tần giận Tấn Hoài công tự ý trốn về làm vua thay Tấn Huệ công, nên Tần Mục công bèn sai sứ đến rước Trùng Nhĩ về làm vua Tấn.

Trùng Nhĩ đến nước Tần, được Tần Mục công gả cho 5 người con gái, trong đó có Hoài Doanh là vợ cũ của vua cháu Tấn Hoài công.

Tháng 3 năm 636 TCN, Tần Mục công sai quân đưa Trùng Nhĩ về nước. Trùng Nhĩ sai người về báo cho vây cánh các đại phu Loan Chi, Khước Bốc làm nội ứng ở Giáng đô đón quân Tần. Tấn Hoài công điều quân ra chống quân Tần, nhưng số đông binh sĩ và nhân dân nghe tiếng Trùng Nhĩ đều có ý đón rước không muốn chống lại. Tấn Hoài công biết mình thế cô, bèn bỏ chạy sang đất Cao Lương.

Trùng Nhĩ vào Giáng đô, trở thành vua Tấn Văn công. Ngày mậu thân tháng đó, Tấn Văn công sai người đến đất Cao Lương giết Tấn Hoài công.

Lần thứ hai

Vây cánh những người chống lại Tấn Văn công còn khá đông, cầm đầu là Lã Sảnh và Khước Nhuế vốn là bầy tôi gần gũi của Tấn Huệ công. Hai người mưu đốt cung điện để ám sát ông và lập vua khác.

Hoạn quan Bột Đề vốn từng 2 lần được cử đi giết ông không thành trước đây, biết mưu của Lã Sảnh, bèn đi báo với Tấn Văn công. Văn công mới về nước, sợ vây cánh họ Lã và họ Khước chưa diệt hết, bèn vi hành bí mật sang nước Tần một lần nữa để tránh. Tần Mục công đón tiếp ông ở Vương Thành. Trong nước Tấn chỉ có mấy cận thần biết vua đã ra ngoài.

Lã Sảnh và Khước Nhuế đốt cung điện nhưng không bắt được Tấn Văn công. Quân họ Lã và họ Khước đụng độ với vệ binh của Tấn Văn công, bị đánh bại bỏ chạy. Tần Mục công sai sứ đến dụ Lã Sảnh và Khước Nhuế đến gặp để bàn lập người khác làm vua. Lã Sảnh và Khước Nhuế đến liền bị vua Tần bắt giết trên sông Hoàng Hà. Sau đó Tần Mục công sai 3000 quân hộ vệ Tấn Văn công trở về nước Tấn. Từ đó nước Tấn yên ổn.

Ban thưởng

Tấn Văn công đoàn tụ với gia quyến cũ ở các nước sau 19 năm lưu lạc (655 TCN – 636 TCN). Ông phong con trai thứ ba là công tử Cơ Hoan làm Thế tử cũng như ban thưởng cho các công thần có công đi theo phò tá mình, người công lớn được phong ấp, người công nhỏ được tước vị.

Việc ban thưởng chưa xong thì nhà Chu sang báo có loạn: vương tử Đái cướp ngôi Chu Tương Vương. Tấn Văn công vội điều quân đi cứu nhà Chu, để dở dang việc ban thưởng. Trong số những người đi lưu lạc có Giới Tử Thôi chưa được ban thưởng. Tử Thôi không muốn làm theo những công thần kể công lao để lĩnh thưởng mà tự bỏ đi ở ẩn, mang mẹ già đi theo.

Thủ hạ của Giới Tử Thôi thương Tử Thôi thiệt thòi, có người viết thư treo ở cửa cung Tấn Văn công, có ý oán trách vua quên người có công. Văn công nhớ ra Giới Tử Thôi, bèn sai người đi mời không được. Hai mẹ con Tử Thôi đi ở ẩn trong núi Miên Thượng.

Đánh Trịnh

Tấn Văn công chỉnh lại quân đội, dùng Tuân Lâm Phủ chỉ huy trung quân, Tiên Cốc chỉ huy hữu quân, Tiên Miệt chỉ huy tả quân.

Năm 630 TCN, Tấn Văn công vì nước Trịnh có thù với mình khi lưu lạc, lại giúp Sở chống Tấn nên cùng Tần Mục công mang quân đánh Trịnh. Nước Trịnh bị vây hãm. Đại phu nước Trịnh là Thúc Thiêm phải tự sát để lấy lòng nước Tấn nhưng Văn công vẫn đòi bắt vua Trịnh.

Trịnh Văn công bèn sai sứ đến gặp Tần Mục công, phân tích lợi hại: đánh Trịnh chỉ làm tăng uy thế của Tấn, không lợi gì cho Tần. Tần Mục công bèn tự mình rút quân. Tấn Văn công vây Trịnh không hạ được cũng bãi binh về nước.

Qua đời

Năm 628 TCN, Tấn Văn công mất. Ông ở ngôi được 9 năm, thọ 69 tuổi. Tấn Văn công là bá chủ thứ 2 sau Tề Hoàn công, đã giao tranh với 4 nước Tào, Vệ, Sở, Trịnh; 2 lần họp chư hầu. Ông được an táng về thành Khúc Ốc.

Thế tử Cơ Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương công. Tương công kế tục được ngôi bá chủ của Văn công để lại.

Gia quyến

  • Phu nhân: ít nhất 10 phu nhân. Tuy nhiên khi so sánh giữa Tấn Văn công với Tề Hoàn công, Giả Huyền Ông có ý kiến đánh giá Tề Hoàn công cao hơn:

Trong văn hóa

Đông Chu liệt quốc

:Xem thêm: Tết Hàn thực

Tấn Văn công là một nhân vật trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, xuất hiện từ hồi 27 đến hồi 44. Thời gian lưu lạc qua nhiều nước và sự nghiệp bá chủ của ông được mô tả sát với sử sách.

Riêng có chuyện Giới Tử Thôi có công theo hầu mà không được ban thưởng, Đông Chu liệt quốc kể khác với Sử ký và Tả truyện. Trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng Trùng Nhĩ. Khi lên ngôi, Tấn Văn công quên công Tử Thôi. Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng. Tấn Văn công mời ra nhiều lần không được, bèn nghe theo kế của Ngụy Thù, đốt rừng để Tử Thôi phải ra. Nhưng Tử Thôi vì tự trọng không ra lĩnh thưởng, hai mẹ con cùng chết trong rừng. Tấn Văn công thương xót bèn lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm. Từ đó việc kiêng nổi lửa chỉ ăn đồ nguội ngày 3 tháng 3 Âm lịch hàng năm được gọi là Tết hàn thực.

Chính sử không đề cập việc Tấn Văn công đốt rừng ép Tử Thôi phải ra. Tả truyện nhắc việc "hai mẹ con cùng đi ở ẩn rồi mất"; Sử ký chỉ nhắc tới việc Tấn Văn công đi mời Tử Thôi không được bèn lấy đất Miên Thượng cấp cho Tử Thôi, gọi là "ruộng Tử Thôi", còn núi Miên Thượng gọi là "Thôi Sơn", không nhắc tới cái chết của Tử Thôi.

Điện ảnh

Năm 1990 đài TVB Hồng Kông đã cho thực hiện bộ phim truyền hình Tấn Văn công truyền kỳ trong đó nam diễn viên Lê Minh là người thủ vai công tử Trùng Nhĩ.

Năm 1996 điện ảnh Trung Quốc sản xuất phim Đông Chu liệt quốc, diễn viên Tưởng Khải vào vai Tấn Văn công.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Tần Văn công** (chữ Hán: 秦文公, trị vì: 765 TCN – 716 TCN), là vị vua thứ bảy của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Theo
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Tấn Tương công** (chữ Hán: 晋襄公, cai trị: 627 TCN – 621 TCN), tên thật là **Cơ Hoan** (姬欢), là vị vua thứ 25 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Linh công** (chữ Hán: 晉靈公, cai trị: 620 TCN – 607 TCN), tên thật là **Cơ Di Cao** (姬夷皋), là vị quân chủ thứ 26 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong
**Tấn Hiến công** (chữ Hán: 晋献公, cai trị: 676 TCN – 651 TCN), tên thật là **Cơ Quỹ Chư** (姬詭諸), là vị vua thứ 19 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tấn Thành công** (chữ Hán: 晋成公, cai trị: 606 TCN – 600 TCN), tên thật là **Cơ Hắc Đồn** (姬黑臀), là vị vua thứ 27 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tấn Hoài công** (chữ Hán: 晋怀公, cai trị: 637 TCN – 636 TCN), tên thật là **Cơ Ngữ** (姬圉), là vị vua thứ 23 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦憲公, trị vì: 715 TCN – 704 TCN), là vị vua thứ tám của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Trong Sử ký Tư
**Trịnh Văn công** (chữ Hán: 鄭文公; trị vì: 673 TCN–628 TCN), tên thật là **Cơ Tiệp** (姬踕), là vị vua thứ tám của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Phong trào Tân văn hóa** từ giữa thập niên 1910 đến thập niên 1920 là cuộc vận động văn hóa chính trị, khởi xướng bởi các trí thức vỡ mộng với văn hóa Trung Quốc
_Xem thêm_: Văn công (định hướng) **Văn Công** (chữ Hán: 文公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách # Tây Chu Chu Văn công # Tây Chu Đằng Văn công
**Marcel Nguyễn Tân Văn** hay **Gioakim Nguyễn Tân Văn** (15 tháng 3 năm 1928 – 10 tháng 7 năm 1959) là một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo
**Hồ Văn Cống** (1912–1943) hay **Hai Cống**, là nhà cách mạng Việt Nam, từng đảm nhiệm vai trò Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một của Đảng Cộng sản Đông Dương. ## Thân thế Ông
Trải qua nhiều năm học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đã giúp tôi tự tin hơn trong việc khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu của riêng mình. Nền móng đầu tiên cho dự định này
**Tấn Cảnh công** (chữ Hán: 晋景公, cai trị: 599 TCN – 581 TCN), tên thật là **Cơ Cứ** (姬据), là vị vua thứ 28 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Lệ công** (chữ Hán: 晉厲公, cai trị: 580 TCN – 573 TCN), tên thật là **Cơ Thọ Mạn** (姬寿曼) hoặc **Cơ Châu Bồ** (姬州蒲), là vị vua thứ 29 của nước Tấn - chư
**Tấn Văn hầu** (chữ Hán: 晉文侯, cai trị: 780 TCN – 746 TCN), tên thật là **Cơ Cừu** (姬仇), là vị vua thứ 11 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Hiếu công** (chữ Hán: 秦孝公, sinh 381 TCN, trị vì 361 TCN-338 TCN) hay **Tần Bình vương** (秦平王), tên thật là **Doanh Cừ Lương** (嬴渠梁), là vị vua thứ 30 của nước Tần -
**Tần Tương công** (chữ Hán: 秦襄公,833 TCN – 766 TCN), là vị vua thứ sáu của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Đây cũng là vị vua đầu tiên
**Tấn Định công** (chữ Hán: 晉定公, cai trị: 511 TCN – 475 TCN), tên thật là **Cơ Ngọ** (姬午), là vị vua thứ 34 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦献公, trị vì 384 TCN-362 TCN), còn gọi là **Tần Nguyên Hiến công** (秦元献公) hay **Tần Nguyên vương** (秦元王), là vị quân chủ thứ 29 của nước Tần - chư
**Tần Hoàn công** (chữ Hán: 秦桓公, trị vì 603 TCN-577 TCN)), tên thật là **Doanh Vinh** (嬴荣), là vị quân chủ thứ 17 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tần Trang công** (chữ Hán: 秦莊公, : 855 TCN – 778 TCN), tên thật là **Doanh Kỳ** (嬴其), là vị quân chủ thứ năm của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Đồng Văn Cống** (tháng 2 năm 1917 – 6 tháng 8 năm 2005) là một tướng lĩnh, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, từng làm Tỉnh đội trưởng Bến Tre, Sư
**Lê Văn Công** (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1984) là một vận động viên cử tạ người Việt Nam. Anh là vận động viên Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương vàng của Paralympic,
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Phong trào Minh Tân** (còn gọi là **phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ**) do **Hội Minh Tân** (kể từ đây trở đi có khi gọi tắt là Hội) đề xướng và lãnh đạo, là
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Tống Văn công** (chữ Hán: 宋文公, ?-589 TCN, trị vì 611 TCN-589 TCN), tên thật là **Tử Bão Cách** (子鮑革) hay **Tử Bão** (子鮑), là vị vua thứ 24 của nước Tống - chư hầu
**Lỗ Văn công** (chữ Hán: 魯文公, trị vì 626 TCN-609 TCN), tên thật là **Cơ Hưng** (姬興), là vị vua thứ 20 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Tân Văn Liên Bố** (giản thể: 新闻 联播; phồn thể: 新聞 聯播; bính âm: _Xīnwén Liánbō_) là một chương trình thời sự hàng ngày được sản xuất và phát sóng bởi Đài Truyền hình Trung
**_Phụ Nữ Tân văn_** (1929—1935) (Hán Việt: 婦女新聞) là tờ báo phụ nữ tư nhân xuất bản tại Sài Gòn và có nhiều ảnh hưởng về văn hóa, xã hội ở Việt Nam nửa đầu
**Vệ Văn công** (chữ Hán: 衞文公; trị vì: 659 TCN-635 TCN), tên thật là **Cơ Hủy** (姬燬), là vị vua thứ 20 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Tây Chu Văn công** (chữ Hán: 西周文公, trị vì: ? - 256 TCN) là vị quân chủ cuối cùng của nước Tây Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, tên húy của ông
Cây Cọ tán vân đá Jeliva vàng đồng* Mô tả: - Cọ tán vân đá jeliva vàng đồng chuyên dụng cho vẽ hoa , vẽ cánh hoa và tán vân đá- Cọ tán vân đá
**Tào Văn công** (chữ Hán: 曹文公; trị vì: 617 TCN-595 TCN), tên thật là **Cơ Thọ** (姬壽), là vị vua thứ 17 của nước Tào – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cây cọ vẽ móng , cọ tán vân đá jeliva* Mô tả: - Cọ vẽ hoa , cọ tán vân đá jeliva chuyên dụng cho vẽ hoa , vẽ cánh hoa và tán vân đá-
*Cửa hàng JELIVA CHÍNH HÃNG cam kết : - Phản hồi lại khách hàng nhanh chóng kịp thời trong vòng 24h - Khách hàng có thể đổi trả sản phẩm trong vòng 3 ngày với
Luật Toàn Long cung cấp cho Quý khách hàng những lời khuyên pháp lý xuất sắc, đáng tin cậy, đồng thời thiết lập các mối quan hệ lâu dài.Công ty TNHH Toàn Long được thành
Luật Toàn Long cung cấp cho Quý khách hàng những lời khuyên pháp lý xuất sắc, đáng tin cậy, đồng thời thiết lập các mối quan hệ lâu dài.Công ty TNHH Toàn Long được thành
Chúng ta đang thực sự quay cuồng trong công việc và không có thời gian để tận hưởng cuộc sống thực sự, do chúng ta chưa biết sắp xếp thời gian cho hợp lý. Mặc
MÔ TẢ SẢN PHẨMCây cọ vẽ móng , cọ tán vân đá jeliva* Mô tả: - Cọ vẽ hoa , cọ tán vân đá jeliva chuyên dụng cho vẽ hoa , vẽ cánh hoa và
**Trung Quốc Tân Văn xã** (, , viết tắt: CNS) là hãng thông tấn quốc doanh lớn thứ hai ở Trung Quốc, sau Tân Hoa xã. Trước đây, Tân Văn xã được điều hành bởi
MÔ TẢ SẢN PHẨMCây cọ vẽ móng , cọ tán vân đá jeliva* Mô tả: - Cọ vẽ hoa , cọ tán vân đá jeliva chuyên dụng cho vẽ hoa , vẽ cánh hoa và
Tác giả Văn Công Hùng, sinh năm 1958 tại Thanh Hóa, quê ở Thừa Thiên-Huế, hiện sống tại thành phố Pleiku, Gia Lai đã xuất bản 16 đầu sách nguyên Ủy viên Ban Chấp hành
PHÍA TÂY THÀNH PHỐ là tập tản văn của bác sĩ Lê Minh Khôi, người trực tiếp tham gia điều hành một bệnh viện dã chiến điều trị bệnh nhân covid. Dù bận rộn với