✨Tấn Hiến công

Tấn Hiến công

Tấn Hiến công (chữ Hán: 晋献公, cai trị: 676 TCN – 651 TCN), tên thật là Cơ Quỹ Chư (姬詭諸), là vị vua thứ 19 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Tấn Hiến công là con của Tấn Vũ công – vua thứ 18 nước Tấn. Năm 679 TCN, Vũ công mang quân đánh diệt Tấn hầu Dẫn, thống nhất nước Tấn chia cắt sau 68 năm. Được 2 năm, Vũ công mất, Cơ Quỹ Chư lên nối ngôi, tức là Tấn Hiến công.

Nội tộc chia rẽ

Trước khi lên ngôi, Tấn Hiến công đã có nhiều vợ và nhiều con trai. Trong số đó có ba người tài giỏi và có đức hạnh nhất là Cơ Trùng Nhĩ (sinh năm 697 TCN), thứ đến là công tử Cơ Di Ngô và Cơ Thân Sinh. Mẹ Thân Sinh là Tề Khương, con gái Tề Hoàn công, bá chủ chư hầu đương thời. Do thế lực ngoại thích lớn mạnh, bà được phong làm chính thất của Hiến công. Thân Sinh tuy là con trai thứ ba nhưng lại là Đích tử, cha vừa lên ngôi đã được sắc phong Thế tử.

Năm 672 TCN, Tấn Hiến công đánh bộ tộc người Nhung, bắt được hai người con gái là Ly Cơ và người em gái là Thiếu Cơ. Mẹ Thân Sinh đã qua đời, Tấn Hiến công sủng ái cả hai chị em Ly Cơ.

Vì các công tử con Vũ công rất nhiều, đại phu Sĩ Vĩ khuyên Tấn Hiến công nên giết các anh em trai để trừ hậu họa. Năm 669 TCN, Tấn Hiến công ra lệnh giết các công tử anh em. Đồng thời, ông bắt đầu khởi công xây kinh đô mới ở đất Tụ, gọi là Giáng đô. Từ đó nước Tấn không đóng đô ở đất Dực nữa mà đóng đô ở đất Giáng.

Năm 668 TCN, các công tử nước Tấn sợ bị giết bèn bỏ chạy sang nước Quắc vốn có thù với nước Tấn.

Năm 665 TCN, Ly Cơ sinh được con trai là Hề Tề. Năm 652 TCN, em gái Ly Cơ cũng sinh được con trai là Trác Tử. Hiến công muốn phế ngôi Thế tử của Thân Sinh, cho Hề Tề lên thay ngôi. Vì các con Trùng Nhĩ, Di Ngô và Thân Sinh đã lớn mà Hề Tề còn nhỏ nên chưa tiện thay ngôi, Hiến công bèn tính kế đưa con lớn đi trấn thủ ở ngoài, sai Trùng Nhĩ đi trấn thủ thành Bồ gần biến giới phía bắc, sai Thân Sinh trấn thủ đất Khúc Ốc và sai Di Ngô trấn thủ đất Khuất.

Mở rộng bờ cõi

Diệt 3 nước

Năm 661 TCN, Tấn Hiến công lập ra hai đạo quân lớn trong nước để chinh phạt mở rộng đất đai. Ông tự mình chỉ huy đạo thượng quân và giao cho Thế tử Thân Sinh chỉ huy đạo hạ quân.

Tấn Hiến công lại dùng Triệu Túc và Tất Vạn làm tướng hộ vệ, cùng Thế tử Thân Sinh mang quân đánh các nước láng giềng.

Kết quả các đạo quân thắng trận lập công, diệt được 3 nước là Hoạch, Ngụy và Cảnh. Khi trở về, Tấn Hiến công xây tu bổ thành Khúc Ốc cho Thân Sinh, phong cho Triệu Túc và Tất Vạn làm đại phu; Triệu Túc trấn thủ đất nước Cảnh cũ và phong cho Tất Vạn đất nước Ngụy cũ. Triệu Túc trở thành tổ tiên của nước Triệu và Tất Vạn trở thành tổ tiên nước Ngụy sau này.

Sĩ Vĩ khuyên Thân Sinh nên bỏ trốn, vì việc điều Thế tử đi ở ấp riêng là Tấn Hiến công không có ý cho Thân Sinh ở lại Giáng đô nối ngôi nữa. Thân Sinh không nghe theo.

Sang năm 660 TCN, Tấn Hiến công lại sai Thân Sinh đi đánh đất Đông Sơn. Đại phu Lý Khắc khuyên Hiến công nên tự mình cầm quân đi đánh mà giao nước cho Thái tử mới phải lẽ, nhưng Hiến công không nghe. Lý Khắc đi báo cho Thân Sinh biết, rồi cáo ốm không đi cùng Thân Sinh. Thân Sinh đi đánh diệt Đông Sơn.

Diệt Quắc và Ngu

:Xem thêm: Ba mươi sáu kế

Nước Quắc vốn là chư hầu thường theo lệnh thiên tử nhà Chu mang quân can thiệp vào việc tranh ngôi của cha ông Tấn Hiến công là Khúc Ốc Trang Bá và Tấn Vũ công ở đất Khúc Ốc với chi trưởng ở đất Dực. Quân nước Quắc nhiều lần ngăn cản chi Khúc Ốc đoạt ngôi vua Tấn, lại đang cho các công tử anh em của Hiến công trốn tránh ở nhờ, nên Tấn Hiến công muốn đánh Quắc năm 667 TCN. Tuy nhiên theo lời can của Sĩ Vĩ nên chờ lúc nước Quắc loạn, Tấn Hiến công tạm thời chưa gây chiến.

Năm 658 TCN, Tấn Hiến công quyết định phát động đánh nước Quắc. Tuy nhiên nước Quắc có nước Ngu, vốn là con cháu Ngô Thái Bá và Ngô Trọng Ung – bác của Chu Văn Vương, có họ với nước Tấn – là láng giềng thường cứu trợ lẫn nhau. Theo kế của Tuân Tức, ông sai người lấy ngựa tốt và xe đẹp tặng vua nước Ngu để mượn đường đánh Quắc. Vua nước Ngu bằng lòng cho Tấn mượn đường đánh Quắc và cam kết sẽ không cứu viện cho nước Quắc nữa. Tấn Hiến công mang quân đánh Quắc, chiếm đất Dương Hạ.

Năm 654 TCN, Tấn lại mượn đường nước Ngu để đánh Quắc lần thứ hai.

Sau khi diệt Quắc, Tấn Hiến công mang quân quay lại đánh úp nước Ngu, diệt nốt nước Ngu, bắt sống Ngu công và Bách Lý Hề. Cung Chi Kỳ bỏ trốn từ trước nên thoát. Nước Ngu truyền từ Ngu Trọng được Chu Vũ vương phong tới đó chấm dứt. Việc mượn đường Ngu diệt Quắc của Tấn Hiến công được đời sau gọi là Giả đạo phạt Quắc (假道伐虢), một trong ba mươi sáu kế sách lược của quân sự Trung Quốc cổ đại.

Bờ cõi nước Tấn mở rộng, trở thành nước lớn mạnh, phía tây có đất Hà Tây giáp nước Tần, phía bắc giáp nước Địch, phía đông đến Hà Nội. Cùng thời gian này, Tề Hoàn công đang xưng bá chủ chư hầu.

Bỏ con lớn

Ly Cơ muốn hại Thân Sinh để giành ngôi Thế tử cho con mình, thường gièm pha Thân Sinh với Hiến công. Nhưng khi Hiến công tỏ ý muốn thay ngôi thì Ly Cơ lại tỏ ra nhân từ, can ông không nên làm.

Năm 655 TCN, Ly Cơ nói với Thân Sinh rằng Tấn Hiến công mộng thấy Tề Khương (mẹ Thân Sinh) và giục Thân Sinh cúng lễ. Thân Sinh làm lễ cúng mẹ mình là Tề Khương, sai người dâng thịt cúng về cho Tấn Hiến công. Lúc thịt dâng đến, Hiến công đang đi săn, Ly Cơ bèn bỏ thuốc độc vào. Khi Hiến công trở về định ăn thì Ly Cơ khuyên nên thử trước. Hiến công cho chó và một viên quan nhỏ ăn thử. Cả chó và viên quan đều chết. Tấn Hiến công nổi giận bèn sai người đi đến Khúc Ốc bắt giết Thân Sinh.

Thân Sinh nghe tin bị truy nã bèn bỏ trốn đến Tân Thành. Tấn Hiến công bèn bắt giết thái phó của Thế tử là Đỗ Nguyên Khoản. Thủ hạ của Thân Sinh khuyên Thế tử nên tự biện bạch nỗi oan và tố cáo Ly Cơ bỏ thuốc nhưng Thân Sinh vì có hiếu, biết vua cha quá yêu Ly Cơ, nên tự sát ở Tân Thành vào tháng 12 năm 655 TCN. Tấn Hiến công chính thức lập Hề Tề làm Thế tử.

Hai con lớn khác của Hiến công là Trùng Nhĩ và Di Ngô đang đến Giáng đô thăm cha, cũng bị Ly Cơ gièm pha, sợ hãi vội bỏ chạy về đất trấn thủ là ấp Bồ và ấp Khuất lo cố thủ.

Tấn Hiến công giận hai con lớn bỏ đi vô phép bèn điều quân đánh đất Bồ và đất Khuất. Bột Đề đánh đất Bồ, Trùng Nhĩ vượt tường bỏ trốn thoát sang quê mẹ ở đất Địch.

Đất Khuất trung thành với Di Ngô cố thủ qua năm, quân Tấn không hạ được. Sang năm 654 TCN, sau khi diệt hai nước Quắc và Ngu, Tấn Hiến công lại sai Giả Hoa đánh đất Khuất. Không giữ nổi thành, công tử Di Ngô theo lời Ký Nhuế bèn chạy sang nước Lương ở gần nước Tần.

Năm 652 TCN, Tấn Hiến công lại đánh nước Địch để truy kích Trùng Nhĩ. Nước Địch là quê mẹ Trùng Nhĩ, vì Trùng Nhĩ mà mang quân ra chống cự quân Tấn ở Nghiết Tang. Quân Tấn không thắng được phải rút lui.

Qua đời

Năm 651 TCN, Tề Hoàn công hội chư hầu ở Quỳ Khâu. Tấn Hiến công đang bị bệnh vẫn cố đi dự, nên đi chậm. Giữa đường, ông gặp thái tể Khổng nhà Chu. Thái tể Khổng chê Tề Hoàn công kiêu ngạo và khuyên ông không nên tới hội chư hầu, vua Tề cũng không làm gì nổi.

Tấn Hiến công đang mang bệnh nặng nên quyết định trở về.

Trên giường bệnh, ông gọi Tuân Tức vào ủy thác giúp Thế tử Hề Tề. Tuân Tức thề sẽ tận trung với Thế tử. Ông bèn phong cho Tuân Tức làm tướng quốc.

Tháng 9 năm 651 TCN, Tấn Hiến công qua đời. Ông ở ngôi 26 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Nước Tấn xảy ra tranh chấp ngôi báu và có loạn.

Gia quyến

  • Phi tần: Hồ Cơ (người đất Địch, sinh ra Trùng Nhĩ) Hồ Cơ (người đất Địch, em mẹ Trùng Nhĩ, sinh ra Di Ngô) Tề Khương (con gái Tề Hoàn công, sinh ra Thân Sinh và người con gái lấy Tần Mục công) Ly Cơ (người Nhung, sinh ra Hề Tề) ** Thiếu Cơ (em gái Ly Cơ, người Nhung, sinh ra Trác Tử)
  • Hậu duệ: Tổng số có chín người con trai, Sử ký chỉ ghi lại tên 5 người: Thân Sinh, Trùng Nhĩ (Tấn Văn công), Di Ngô (Tấn Huệ công), Hề Tề, Trác Tử. Có một người con gái lấy Tần Mục công.

Các đại phu

  • Sĩ Vĩ
  • Lý Khắc
  • Tất Vạn
  • Triệu Túc
  • Tuân Tức

Trong văn học

Tấn Hiến công xuất hiện trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long từ hồi 20 đến hồi 27. Việc ông say đắm Ly Cơ nên giết Thái tử Thân Sinh và bỏ các con lớn được mô tả gần với chính sử.

Tuy nhiên, việc mượn đường nước Ngu diệt nước Quắc được mô tả khác với chính sử. Theo đó quân Tấn chỉ mượn đường nước Ngu đánh một lần diệt được nước Quắc và sau đó quay sang đánh luôn nước Ngu chứ không mượn đường tới 2 lần và kéo dài chiến tranh trong 4 năm.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Hiến công** (chữ Hán: 晋献公, cai trị: 676 TCN – 651 TCN), tên thật là **Cơ Quỹ Chư** (姬詭諸), là vị vua thứ 19 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦献公, trị vì 384 TCN-362 TCN), còn gọi là **Tần Nguyên Hiến công** (秦元献公) hay **Tần Nguyên vương** (秦元王), là vị quân chủ thứ 29 của nước Tần - chư
**Tần Hiến Công** trong Tiếng Việt có thể là: ## Danh sách *Tần Hiến công (秦憲公): vị quân chủ thứ 3 của Tần tính từ khi được Chu Bình Vương công nhận làm chư hầu,
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Tần Hiếu công** (chữ Hán: 秦孝公, sinh 381 TCN, trị vì 361 TCN-338 TCN) hay **Tần Bình vương** (秦平王), tên thật là **Doanh Cừ Lương** (嬴渠梁), là vị vua thứ 30 của nước Tần -
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦憲公, trị vì: 715 TCN – 704 TCN), là vị vua thứ tám của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Trong Sử ký Tư
**Tấn Linh công** (chữ Hán: 晉靈公, cai trị: 620 TCN – 607 TCN), tên thật là **Cơ Di Cao** (姬夷皋), là vị quân chủ thứ 26 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong
**Tấn Tương công** (chữ Hán: 晋襄公, cai trị: 627 TCN – 621 TCN), tên thật là **Cơ Hoan** (姬欢), là vị vua thứ 25 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Vũ công** (chữ Hán: 晉武公 : 754 TCN – 677 TCN), tên thật là **Cơ Xứng** (姬稱),còn được gọi là **Khúc Ốc quân** hoặc **Khúc Ốc bá**, là vị vua thứ 18 của nước
**Tấn Hoài công** (chữ Hán: 晋怀公, cai trị: 637 TCN – 636 TCN), tên thật là **Cơ Ngữ** (姬圉), là vị vua thứ 23 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Xuất công** (chữ Hán: 秦出公, trị vì 387 TCN-385 TCN), còn gọi là **Tần Thiếu chủ** (秦少主) hay **Tần Tiểu chủ** (秦小主), là vị quân chủ thứ 28 của nước Tần giữa thời Chiến
**Tần Tuyên công** (chữ Hán: _秦宣公_, trị vì 675 TCN-664 TCN), là vị vua thứ 12 của nước Tần - một chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trưởng của
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Tấn Cảnh công** (chữ Hán: 晋景公, cai trị: 599 TCN – 581 TCN), tên thật là **Cơ Cứ** (姬据), là vị vua thứ 28 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Hiến Công** (chữ Hán: 献公 hoặc 憲公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách # Cơ Tử Triều Tiên Nhân Hiến Công (có thụy hiệu khác là Văn Thánh đại
Trải qua nhiều năm học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đã giúp tôi tự tin hơn trong việc khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu của riêng mình. Nền móng đầu tiên cho dự định này
**Cố Luân Vinh Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦荣宪公主, 20 tháng 6 năm 1673 - 29 tháng 5 năm 1728), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 3 nhưng lại là người lớn nhất
**Tần Cảnh công** (chữ Hán: 秦景公, trị vì 576 TCN-537 TCN), còn gọi là **Tần Hi công** (秦僖公), tên thật là **Doanh Hậu** (嬴後), là vị quân chủ thứ 18 của nước Tần - chư
**Tấn Lệ công** (chữ Hán: 晉厲公, cai trị: 580 TCN – 573 TCN), tên thật là **Cơ Thọ Mạn** (姬寿曼) hoặc **Cơ Châu Bồ** (姬州蒲), là vị vua thứ 29 của nước Tấn - chư
**Tần Vũ công** (chữ Hán: 秦武公, trị vì: 697 TCN-678 TCN), là vị vua thứ 10 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Lên ngôi Theo Sử ký,
**Cố Luân Ôn Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦温宪公主, 1683 - 1702), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ chín của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Ngũ Công chúa.
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Vệ Hiến công** (chữ Hán: 衛獻公, trị vì 576 TCN-559 TCN và 546 TCN-544 TCN), tên thật là **Cơ Khản** (姬衎), là vị vua thứ 26 của nước Vệ - chư hầu của nhà Chu
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Tấn Trác Tử** (chữ Hán: 晋卓子; 652 TCN - 651 TCN), tên thật là **Cơ Trác Tử** (姬卓子), là vị vua thứ 21 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tấn Hề Tề** (chữ Hán: 晉奚齊, 665 TCN - 651 TCN), tên thật là **Cơ Hề Tề** (姬奚齊), là vị vua thứ 20 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Trịnh Hiến công** (chữ Hán: 鄭獻公; trị vì: 513 TCN–501 TCN), tên thật là **Cơ Mãi** (姬躉) hay **Cơ Độn**, là vị vua thứ 18 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tân Hiến Anh** (chữ Hán: 辛宪英, 191 – 269), nguyên quán là quận Lũng Tây , sinh quán là Dương Địch, Dĩnh Xuyên , liệt nữ nổi tiếng thông minh thời Tam Quốc. ## Cuộc
**Trung Hiến Công** (_chữ Hán_:忠獻公 hoặc 忠憲公) là thụy hiệu của một số vị đại thần trong lịch sử khu vực Á Đông dưới chế độ quân chủ. ## Danh sách Trung Hiến Công (忠獻公)
**Văn Hiến Công** (_chữ Hán_:文献公 hoặc 文憲公) là thụy hiệu của một số vị quốc công, quận công hoặc huyện công trong lịch sử Trung Quốc. ## Danh sách Văn Hiến Công (文献公) *Đông Tấn
Luật Toàn Long cung cấp cho Quý khách hàng những lời khuyên pháp lý xuất sắc, đáng tin cậy, đồng thời thiết lập các mối quan hệ lâu dài.Công ty TNHH Toàn Long được thành
Luật Toàn Long cung cấp cho Quý khách hàng những lời khuyên pháp lý xuất sắc, đáng tin cậy, đồng thời thiết lập các mối quan hệ lâu dài.Công ty TNHH Toàn Long được thành
**Ngụy Trung Hiến Công** (chữ Hán:魏忠獻公) có thể là những vị Ngụy quốc công sau: ## Danh sách *Ngụy Trung Hiến Công Triệu Phổ thời Bắc Tống, sau được truy tặng là Hàn Trung Hiến
**Hiếu Hiến Công** (_chữ Hán_:孝獻公) là thụy hiệu của một số vị công tước trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tào Ngụy Sơn Dương Hiếu Hiến Công (trước
**Siêu tân tinh** (chữ Hán: 超新星) hay **sao siêu mới** (; viết tắt là **SN** hay **SNe**) là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của
**Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất** (tên giao dịch chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất**; IATA: **SGN**; ICAO: **VVTS**) là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện tại.
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
thumb|upright=1.1|Ảnh chụp một phòng tra tấn cũ ở [[Lữ Thuận Khẩu, Trung Quốc]] **Tra tấn** là hành vi có chủ ý gây chấn thương tâm lý hoặc thể xác nghiêm trọng cho một cá nhân
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
KEM NÁM SẠM TÀN NHANG CYDO☺️ Kem nám sạm tàn nhang CyDo chứa Enzym giúp ức chế men Tyrosinase. Đồng thời làm cho melanin nhanh chóng bị phá vỡ cấu trúc và thải loại ra
**Cục Tần số vô tuyến điện** (tiếng Anh: _The Authority of Radio Frequency Management_, viết tắt là ARFM) là cơ quan trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, có chức năng tham mưu, giúp
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở