✨Tấn (nước)

Tấn (nước)

Tấn (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương đương Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay.

Nguyên nước Tấn được gọi là Đường (唐國), được Chu Thành vương ban làm ấp cho em trai Đường thúc Ngu, sau mới đổi gọi là Tấn. Trong thời Xuân Thu, nước Tấn nổi lên là một cường quốc nhất nhì trong thiên hạ, có Tấn Văn công Cơ Trùng Nhĩ được liệt vào một trong Ngũ bá trong lịch sử. Đến đời Tấn Linh công, Tấn Thành công và Tấn Bình công, thế lực các đại thần lớn mạnh, gọi là Lục khanh dần dần lấn át của Tấn công. Đến đời Tấn Xuất công, thế lực họ Hàn, họ Ngụy và họ Triệu thay nhau chia rẽ triều đình nước Tấn, dẫn đến sự diệt vong của nước Tấn.

Năm 403, Chu Uy Liệt vương quyết định phong Tấn quốc đại phu Hàn Kiền, Triệu Tịch và Ngụy Tư làm Hàn hầu, Triệu hầuNgụy hầu, chia giang sơn Tấn ra làm 3, thành lập nên nước Hàn, nước Triệu và nước Ngụy trong lịch sử. Năm 376 TCN, Tấn Tĩnh công bị phế và đất phong bị chiếm nốt, nước Tấn hoàn toàn chấm dứt sau hơn 500 năm tồn tại.

Thành lập

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, nước Tấn được thành lập khá muộn trong các chư hầu thời Tây Chu. Sau khi Chu Vũ vương mất, con là Chu Thành vương lên thay, có Chu Công Đán phụ chính. Khi đó một chư hầu là nước Đường nổi loạn, Chu công Đán mang quân tiêu diệt.

Chu Thành vương có một người em nhỏ tên là Cơ Ngu, khi ngồi chơi với Thành vương, vua cắt cái lá đồng làm ngọc khuê đưa cho Cơ Ngu và nói:"Để ta phong đất này cho nhà ngươi"

Quan Thái sử nhà Chu làm nhiệm vụ chép sử hỏi vua chọn ngày để phong cho Cơ Ngu. Thành vương nói rằng khi đó chỉ nói đùa với cậu em nhỏ thôi. Quan thái sử nghiêm sắc mặt nói:"Thiên tử không thể nói chuyện đùa"

Do đó, Chu Thành vương không thể cưỡng lại, bèn chính thức phong cho Cơ Ngu làm vua chư hầu nước Đường, gọi là Đường Thúc Ngu. Sau đó, nước Đường mới đổi tên thành nước Tấn như ta đã biết.

Tranh chấp nội tộc

Chi thứ đoạt trưởng

Thương Thúc

Nước Tấn truyền đến đời thứ 9 là Tấn Mục hầu Cơ Phế Vương thì bắt đầu xảy ra việc tranh chấp giữa chi trưởng và chi thứ, diễn ra trong nhiều thế hệ. Việc tranh chấp của nội tộc diễn ra trong hơn 100 năm, 14 đời vua Tấn không yên ổn.

Tranh chấp xảy ra lần đầu tiên khi Tấn Mục hầu mất (785 TCN), người em là Thương Thúc đoạt ngôi của cháu là Cơ Cừu. Cừu phải bỏ trốn.

Năm 781 TCN, Thế tử Cừu tập hợp lực lượng về đánh úp Thương Thúc, lấy lại ngôi vua. Sử không chép rõ về kết cục của Thương Thúc. Cừu lên ngôi tức là Tấn Văn hầu.

Khúc Ốc

Năm 746 TCN, Văn hầu chết, con là Bá lên ngôi, tức là Tấn Chiêu hầu (746-740 TCN). Chiêu hầu phong cho chú là Thành Sư (em Văn hầu) đã 58 tuổi ở đất Khúc Ốc là một ấp lớn hơn cả đất Dực là kinh đô nước Tấn. Người chú ở Khúc Ốc được gọi là Khúc Ốc Hoàn Thúc. Hoàn Thúc chú trọng gây uy tín để lấy lòng dân. Từ đó thế lực của chi thứ bắt đầu phát triển. Nhiều kẻ sĩ nước Tấn lo ngại loạn lạc nảy sinh từ Khúc Ốc.

Năm 740 TCN, đại phu nước Tấn là Phan Phù làm phản giết Tấn Chiêu hầu và đón Khúc Ốc Hoàn Thúc về kinh làm vua. Phe chi trưởng không phục, tập hợp lại đánh đuổi Thành Sư và giết Phan Phù. Thành Sư bỏ chạy về Khúc Ốc. Con của Chiêu hầu là Hình được lập lên ngôi, tức là Tấn Hiếu hầu.

Năm 731 TCN, Thành Sư chết ở Khúc Ốc, thọ 72 tuổi. Con là Thiện lên thay cai quản Khúc Ốc, được gọi là Trang Bá Thiện hay Khúc Ốc Trang Bá.

Năm 724 TCN, Trang Bá Thiện mang quân đánh kinh thành Dực, giết Tấn Hiếu Hầu để cướp ngôi. Phe chi trưởng lại cùng nhau đánh bật Thiện ra khỏi kinh thành. Thiện lại phải chạy về Khúc Ốc. Người con của Hiếu hầu là Cơ Khích được lập lên ngôi, tức là Tấn Ngạc hầu.

Năm 718 TCN, nghe tin Tấn Ngạc hầu chết, Trang Bá Thiện lại mang quân tiến vào kinh thành Dực lần thứ 2. Thiên tử Chu Hoàn Vương bèn sai vua nước Quắc là Quắc Công mang quân giúp nước Tấn, đánh lại Thiện. Thiện lại bỏ chạy về Khúc Ốc. Người nước Tấn lập con của Ngạc hầu là Quang lên ngôi, tức là Tấn Ai hầu.

Năm 716 TCN, Trang Bá Thiện chết, con là Xứng lên thay. Năm 710 TCN, Cơ Xứng ở Khúc Ốc mang quân đánh nhau với Tấn Ai hầu ở gần sông Phần Thủy, bắt sống được Ai hầu. Người nước Tấn bèn lập con Ai hầu là Thiếu Tử làm vua, tức là Tấn Tiểu Tử hầu. Nghe tin nước Tấn lập Tiểu Tử, Cơ Xứng bèn giết chết Ai hầu. Lúc đó thế lực của Khúc Ốc mạnh hơn hẳn so với nước Tấn.

Năm 707 TCN, Cơ Xứng lại lừa mời Tiểu Tử đến gặp mặt rồi bắt giết. Chu Hoàn vương lại can thiệp, sai Quắc Công một lần nữa mang quân đánh Xứng. Xứng lại chạy về Khúc Ốc. Người nước Tấn lập em Ai hầu là Dẫn làm vua.

Sau khi Chu Hoàn vương rồi Chu Trang Vương mất (682 TCN), năm 679 TCN Cơ Xứng lại mang quân đánh kinh thành Dực, giết chết Tấn hầu Dẫn. Cơ Xứng mang đồ quý báu trong kho ở đất Dực hối lộ thiên tử mới là Chu Ly Vương. Vì vậy Ly vương không can thiệp, chính thức phong cho Xứng làm chư hầu. Cơ Xứng trở thành vua cả nước Tấn từ năm 679 TCN, tức là Tấn Vũ công.

Nước Tấn tính từ Đường Thúc Ngu tới Tấn hầu Dẫn là 17 vua thuộc 15 thế hệ thì chuyển sang ngành thứ. Nước Tấn quá yếu ớt trước thế lực của Khúc Ốc nên dù nhiều lần quân Khúc Ốc phải rút đi, nhưng vua Tấn cũng không đủ sức trấn áp, tiêu diệt hoàn toàn. Liên tiếp 5 vua Tấn bị chi Khúc Ốc tấn công giết hại. Tấn Vũ Công là cháu nội của Thành Sư, thuộc thế hệ thứ 13.

Các con của Hiến công

Vũ Công tuổi cao, sau khi giành ngôi chỉ 2 năm thì qua đời (677 TCN), con là Hiến công nối ngôi. Hiến công có nhiều vợ và nhiều con trai. Ngoài thế tử Cơ Thân Sinh, còn hai người con lớn hơn Thân Sinh nhưng mẹ chỉ là vợ thứ: Trùng Nhĩ và Di Ngô. Mẹ của 3 công tử lớn đều mất, Hiến Công lại lấy 1 người vợ trẻ là Ly Cơ và sinh được Hề Tề. Người em gái của Ly Cơ lại sinh được người con nữa của Hiến công là Trác Tử.

Hiến công yêu vợ mới, nghe lời gièm pha của phe cánh Ly Cơ, muốn bỏ con lớn Thân Sinh để lập con nhỏ Hề Tề. Do tác động của các quan lại thân với Ly Cơ vu tội cho Thân Sinh, Hiến Công sai bắt Thân Sinh. Thân Sinh bèn tự sát. Nghe tin, hai người anh của Thân Sinh là Trùng Nhĩ và Di Ngô biết nội tình trong triều bèn bỏ trốn. Trùng Nhĩ chạy sang quê mẹ là nước Địch, Di Ngô chạy sang nước Lương. Nhiều quan lại bất mãn cũng bỏ theo hai công tử lớn.

Bất chấp sự phản đối của nhiều quan đại phu, Hiến Công kiên quyết lập Hề Tề làm thế tử, uỷ thác cho Tuân Tức. Năm 651 TCN, Hiến công chết, Hề Tề lên ngôi. Phe phản đối Hề Tề do Lý Khắc đứng đầu làm binh biến giết chết Hề Tề và thuyết phục Tuân Tức đổi ý. Nhưng Tuân Tức quyết theo di mệnh, bèn lập em Hề Tề là Trác Tử lên thay. Lý Khắc lại làm binh biến, lần này giết cả Trác Tử và Tuân Tức. Ly Cơ cũng bị giết.

Lý Khắc sai người mời Trùng Nhĩ ở nước Địch về. Trùng Nhĩ sợ mang tiếng là chủ mưu làm loạn nên lấy cớ thoái thác. Lý Khắc bất đắc dĩ phải sai người sang nước Lương mời Di Ngô về lập làm vua Tấn. Tần Mục công lấy con gái Tấn Hiến công và là em của Trùng Nhĩ và Di Ngô, nên sai lấy xe đưa Di Ngô từ nước Lương trở về nước.

Sau đó, Hiến công lại thù nước Quắc trước kia thường theo lệnh nhà Chu đánh lại các tổ tiên Trang Bá Thiện và Tấn Vũ Công khi lực lượng Khúc Ốc tiến vào tranh ngôi, nên quyết chí đánh Quắc.

Năm 654 TCN, Hiến công bèn mượn đường nước Ngu đánh úp nước Quắc, nhưng sau khi diệt Quắc lại chiếm luôn nước Ngu. Nước Ngu không nghe lời can của nước Quắc, tham của hối lộ của nước Tấn nên cả hai cùng bị diệt.

Về cơ bản đến thời Tấn Hiến công, nước Tấn đã được mở rộng và trở thành nước mạnh. Trong khi nước Tấn phát triển ở Sơn Tây thì nước Tề đã làm bá chủ chư hầu dưới thời Tề Hoàn công. Khi đó nước Tấn lại gặp nội loạn nhiều nên không gây được nhiều ảnh hưởng với các nước chư hầu Trung Nguyên.

Giành ngôi bá chủ

:Xem chi tiết: Trận Thành Bộc

Từ năm 643 TCN, bá chủ Tề Hoàn Công qua đời, nước Tề cũng rơi vào tranh chấp quyền lực giữa những người nối ngôi nên mất địa vị bá chủ. Tống Tương công cùng Sở Thành vương nổi lên tranh chấp nhau quyền làm bá, nước Sở thắng thế một thời gian.

Khi Tấn Văn Công lên ngôi, trong nước yên ổn nên quyết định gây ảnh hưởng ra ngoài. Đầu tiên, Văn công mang quân giúp thiên tử nhà Chu bị em là vương tử Đái tranh ngôi. Văn công mang quân sang giết Đái và phò vua Chu Tương Vương trở lại ngôi vua. Từ đó Tấn Văn công bắt đầu có uy tín với vua Chu và chư hầu.

Năm 632 TCN, Văn công đi đánh nước Tào và nước Vệ để báo thù việc gây khó khăn trong thời gian đi lưu lạc. Cùng lúc đó nước Sở cũng mang quân đánh nước Tống là phe cánh của Tấn. Trong khi Tấn đã chiếm được Tào và Vệ thì Sở mới đang vây nước Tống.

Sau đó hai bên dàn quân đánh nhau một trận to ở Thành Bộc. Đó chính là trận Thành Bộc nổi tiếng thời Xuân Thu. Quân Tấn dưới sự chỉ huy của Tiên Chẩn đánh bại quân Sở dưới quyền chỉ huy của Thành Đắc Thần.

Tấn trở thành nước mạnh nhất trong các chư hầu. Sau khi đánh bại chư hầu lớn là nước Sở cứu nước Tống, trả lại nước cho vua Vệ và vua Tào, Tấn Văn công hội chư hầu ở đất Ôn; sau đó lại cùng các chư hầu hội kiến thiên tử nhà Chu ở đất Tiên Thổ. Từ đó Văn Công chính thức trở thành bá chủ chư hầu.

Giữ ngôi bá chủ

Năm 628 TCN, Tấn Văn Công mất, thọ 68 tuổi, thế tử Hoan lên thay, tức là Tấn Tương Công. Tương Công 2 lần đánh bại các cuộc xâm lấn của nước Tần do Tần Mục Công phát động, chặn đường sang đông của nước Tần, giữ vững bờ cõi nước Tấn và ngôi vị bá chủ.

Đến các đời vua sau, tuy thế lực có lúc giảm sút nhưng nhìn đại thể nước Tấn vẫn giữ được ngôi bá chủ. Năm 600, Tấn Thành công lại họp chư hầu ở đất Hỗ.

Đến thời Tấn Cảnh công và Tấn Lệ công, nước Tấn tuy vẫn là nước mạnh nhưng không có vua giỏi, bị Sở Trang vương giành ngôi bá. Sau khi Trang vương chết (591 TCN), nước Sở và nước Tấn cùng tranh giành ảnh hưởng trong các chư hầu. Một số ngả theo Sở, một số nhiều hơn ngả theo Tấn và trên danh nghĩa, Tấn vẫn nắm ngôi vị bá chủ.

Năm 572 TCN, Tấn Điệu công lên ngôi đánh bại các chư hầu Tần và Trịnh, lại hội chư hầu. Sau khi Tấn Điệu công mất (558 TCN), trong gần 100 năm, dù thực lực không được như thời Văn công, Tương công và Điệu Công, các vua Bình công, Chiêu công, Khoảnh công, Định công vẫn duy trì ngôi vị trên danh nghĩa. Khi nước Sái oán nước Sở ức hiếp, kêu cứu nước Tấn, vua Tấn Định công vẫn hội được 18 nước chư hầu để luận tội nước Sở.

Trong khoảng thời gian đó, sở dĩ Tấn vẫn duy trì tương đối được ngôi vị của mình do các nước cạnh tranh trực tiếp là Sở và Tề cũng không có vị vua nào đủ tài năng để tranh giành. Tề Cảnh công là vua giỏi nhưng chưa đạt tới được uy thế như Tề Hoàn công để đoạt ngôi bá của nước Tấn.

Suy yếu và chia cắt

Cuộc tranh giành giữa các khanh thần

Ngay từ thời Tấn Văn công, Tấn Tương công đã manh nha hình thành thế đứng của các thế tộc làm đại phu trong triều. Không chỉ các dòng họ có công "tòng vong" giúp Văn công trong quá trình lưu lạc 19 năm ở nước ngoài, ngay cả các họ tộc ở lại trong nước phù tá Huệ Công, Hoài công cũng có ảnh hưởng nhất định và vua Tấn phải đóng vai trò dàn xếp hài hòa giữa các họ tộc đó. Trong quá trình đấu tranh để giành quyền lực trong triều, các họ tộc dần dần tiêu diệt lẫn nhau.

Thời Văn công có các họ: Hồ, Loan, Triệu, Tuân, Ngụy, Hàn, Khước, Tiên, Phạm (Sĩ). Đến thời Tấn Tương công (627-621 TCN), họ Hồ bị đuổi ra nước ngoài. Thời Cảnh công (598 – 581 TCN), họ Tiên bị diệt, họ Triệu cũng suýt bị diệt tộc nhưng sau được phục hồi địa vị; đến thời Lệ công (580 – 573 TCN), họ Khước bị diệt; thời Bình công (557 – 532 TCN), họ Loan bị diệt.

Họ Tuân sau đó tách làm hai chi và gọi theo đất được phong, một chi gọi là Trung Hàng, chi kia gọi là Trí. Sau hơn 100 năm đến thời Tấn Bình công, chỉ còn lại 6 dòng họ mạnh nhất duy trì được quyền lực là: Ngụy, Hàn, Triệu, Phạm, Trung Hàng, Trí mà sử sách vẫn gọi là lục khanh.

Vua yếu tôi mạnh

Nước Tấn trong quá trình phát triển ngày một lớn mạnh, đất đai rộng mở, nhân lực dồi dào. Ngoài các vua giỏi như Văn Công, Tương Công, Điệu công, các vua Tấn khác đều tầm thường nhưng nhờ bầy tôi dưới quyền vua Tấn cũng có nhiều họ tộc tài giỏi, giúp vua Tấn chiếm ưu thế trong các cuộc chiến với các chư hầu mạnh như Tần, Tề, Sở. Đến cuối thời Xuân Thu, Tấn là nước lớn nhất trong các chư hầu.

Các đại phu mạnh lên, trong triều lại xảy ra thí nghịch và phế lập. Năm 606 TCN, Tấn Linh công bỏ bễ chính sự, mưu giết bề tôi can thẳng họ Triệu, bị họ Triệu giết. Năm 573 TCN, họ Loan và họ Trung Hàng giết Lệ công.

Đến thời Bình công, việc tranh chấp giữa các đại phu ngày càng gay gắt nhưng vua Tấn không thể đóng vai trò can thiệp hay dàn hòa giữa các họ mà hoàn toàn bị các họ chi phối. Những người không cùng cánh với lục khanh đều bị 6 họ tìm cách tiêu diệt.

Sáu họ còn ba

:Xem chi tiết: Ngụy (nước), Hàn (nước), Triệu (nước)

Năm 497 TCN, giữa lục khanh nổ ra chiến tranh. Họ Phạm và họ Trung Hàng liên kết đánh họ Triệu. Họ Triệu lấy danh nghĩa Tấn Định công, liên kết với họ Hàn và họ Ngụy đánh hai họ kia. Trung Hàng Di và Phạm Cát Xạ chạy đến Triều Ca cố thủ. Năm 492 TCN, thành Triều Ca vỡ, họ Phạm và họ Trung Hàng phải bỏ chạy sang nước Tề lưu vong. Từ đó nước Tấn chỉ còn lại 4 họ nắm quyền trong triều là: Trí, Triệu, Hàn, Ngụy.

Năm 475 TCN, Tấn Định công chết, con là Xuất công lên thay. Bốn quan khanh bàn nhau chia đất của hai họ Phạm và Trung Hàng, không đếm xỉa tới vua Tấn. Phần đất của Tấn Xuất công từ đó lại không bằng bốn họ. Vua Tấn nổi giận, sai người sang liên kết với nước Tề để trị tội 4 họ. Nhưng lúc đó nước Tề cũng đang nằm trong tay họ Điền, vua Tề chỉ làm vì, còn họ Điền cũng mưu chiếm nước Tề như các quan khanh nước Tấn nên không ủng hộ vua Tấn.

Năm 458 TCN, bốn họ biết được ý định của vua Tấn, bèn đánh đuổi vua Tấn đi. Vua Tấn phải chạy sang nước Tề và chết giữa đường, nên mới được đặt thụy hiệu là Xuất công. Họ Trí lập một người trong họ tộc nước Tấn là chắt của Tấn Chiêu Công lên ngôi, tức là Tấn Ai công.

Bấy giờ họ Trí có thế lực nhất, được phong tước , 3 họ kia mới chỉ có tước tử. Trí bá tên là Tuân Dao, muốn chiếm cả nước Tấn, nên trước hết thực hiện kế "tằm ăn lá dâu", ra lệnh ép 3 họ kia cùng hiến đất để thôn tính dần. Họ Ngụy và họ Hàn chịu theo nhưng họ Triệu không chịu. Trí bá Tuân Dao bèn hợp quân với họ Hàn và Ngụy đánh Triệu. Triệu Vô Tuất rút về cố thủ ở Tấn Dương.

Quân 3 họ vây đánh Tấn Dương 1 năm không phá được. Năm 454 TCN, khi thành Tấn Dương nguy cấp, Triệu Vô Tuất sai người ra thuyết phục họ Ngụy và họ Hàn về nguy cơ "chia đũa để bẻ" của Trí Bá đối với 3 họ. Hàn và Ngụy bất đắc dĩ mang quân theo Tuân Dao, nay hiểu ra bèn trở giáo cùng Triệu đánh úp Trí Bá. Trí bá trở tay không kịp, bị giết, họ Trí bị diệt. Ba họ Hàn, Triệu, Ngụy cùng chia đất của Trí Bá.

Năm 440 TCN, Tấn Ai công chết, con là U công lên nối ngôi. Vua Tấn lúc đó chỉ còn đất Giáng và đất Khúc Ốc, còn lại đất đai đều thuộc về 3 họ Hàn, Triệu, Ngụy mà sử sách quen gọi là Tam Tấn. Trên thực tế 3 họ đã nắm quyền tự quyết, không còn theo mệnh lệnh hay cần tới danh nghĩa của vua Tấn nữa. Chính vua Tấn phải đến triều kiến 3 họ chứ không phải 3 họ đến triều kiến vua Tấn.

Tàn lụi và diệt vong

Thế lực của vua Tấn lúc đó đã rất suy yếu. Một đêm năm 422 TCN, Tấn U công ra ngoài tư thông với đàn bà nhà dân, bị kẻ trộm trong ấp giết chết. Ngụy Tư (sau là Ngụy Văn hầu) mang quân trấn dẹp bọn cướp và lập con U công là Liệt công lên ngôi.

Năm 403 TCN, thiên tử nhà Chu là Uy Liệt vương chính thức phong cho 3 họ Hàn, Triệu, Ngụy làm chư hầu: Ngụy Tư làm Ngụy Văn hầu, Triệu Tịch làm Triệu Liệt hầu, Hàn Kiền làm Hàn Cảnh hầu. Kể từ đó trong lãnh thổ nước Tấn cũ tồn tại 4 nước chư hầu là Tấn, Hàn, Triệu, Ngụy mà Tấn là nhỏ yếu nhất.

Năm 395 TCN, Tấn Liệt công chết, con là Tấn Hoàn công lên ngôi. Được 17 năm Hoàn công chết (378 TCN), con là Câu Tửu lên ngôi, tức là Tấn Tĩnh công. Năm 376 TCN, ba họ Hàn, Triệu, Ngụy thôn tính nốt đất Giáng và Khúc Ốc của Tấn, đày Tĩnh công là đất Thuần Lưu nhỏ hẹp. Nước Tấn chính thức bị diệt.

Sử ký, thiên Tấn thế giaNgô Thái Bá thế gia đều chép rằng: công tử Quý Trát nước Ngô từ chối ngôi vua do anh Chư Phàn nhường (theo ý của vua cha Thọ Mộng), bỏ trốn đi ngao du các nước chư hầu. Khi Quý Trát đến nước Tấn, khi đó là thời Tấn Bình công, có qua lại nhà các quan khanh đại phu nước Tấn. Sau đó ông từng đưa ra lời tiên đoán: trong các họ đang cầm quyền ở Tấn thì họ Loan mất trước, còn nước Tấn sau này sẽ mất về tay ba nhà Hàn, Triệu, Nguỵ.

Họ Cơ hoàn toàn kết thúc vai trò tại quốc gia này, nước Tấn bị chia làm ba. Nước Tấn tính từ đời Đường Thúc Ngu được Chu Thành Vương phong tới Tấn Tĩnh công có tất cả 40 vua thuộc 28 thế hệ.

Các vua nước Tấn

Theo Sử ký, chỉ từ năm 841 TCN, khi Chu Lệ Vương bị lật đổ và bắt đầu thời Cộng hòa (841 - 828 TCN), số năm cai trị của từng vua (không chỉ nước Tấn mà tất cả các chư hầu) mới được xác định rõ ràng. Còn các đời vua trước đó đều không xác định được số năm cụ thể. Những vị vua liền kề trước đó chỉ xác định được năm mất.

! Thứ tự (thế hệ) ! Thụy hiệu ! Tên húy ! Thời gian ở ngôi ! Số năm ! Quan hệ với vua trước ! Ghi chú |----- | 1 (1) | Đường Thúc Ngu | Cơ Ngu | | | con Chu Vũ Vương | |- | 2 (2) | Tấn hầu Tiệp | Cơ Tiệp | | | con Đường Thúc Ngu | |----- | 3 (3) | Tấn Vũ hầu | Cơ Ninh Tộc | | | con Tấn hầu Tiệp | |- | 4 (4) | Tấn Thành hầu | Cơ Phục Nhân | | | con Vũ hầu | |----- | 5 (5) | Tấn Lê hầu | Cơ Tử Phúc | ? - 859 TCN | | con Thành hầu | |- | 6 (6) | Tấn Tĩnh hầu | Cơ Nghi Cữu | 858 - 841 TCN | 18 | con Thành hầu | |----- | 7 (7) | Tấn Ly hầu | Cơ Tu Đô | 840 - 823 TCN | 18 | con Tĩnh hầu | |- | 8 (8) | Tấn Hiến hầu | Cơ Tịch | 822 - 812 TCN | 11 | con Ly hầu | |----- | 9 (9) | Tấn Mục hầu | Cơ Phế Vương | 811 - 785 TCN | 26 | con Hiến hầu | |- | 10 (9) | Tấn Thương Thúc | | 784 - 781 TCN | 4 | em Mục hầu | mất ngôi |----- | 11 (10) | Tấn Văn hầu | Cơ Cừu | 780 - 746 TCN | 35 | con Mục hầu | |- | 12 (11) | Tấn Chiêu hầu | Cơ Bá | 746 - 740 TCN | 7 | con Văn hầu | bị giết |----- | 13 (12) | Tấn Hiếu hầu | Cơ Bình | 739 - 724 TCN | 16 | con Chiêu hầu | bị giết |- | 14 (13) | Tấn Ngạc hầu | Cơ Khích | 723 - 718 TCN | 6 | con Hiếu hầu | |----- | 15 (14) | Tấn Ai hầu | Cơ quang | 718 - 710 TCN | 9 | con Ngạc hầu | bị giết |- | 16 (15) | Tấn Tiểu Tử hầu | Thiếu Tử | 710 - 707 TCN | 4 | con Ai hầu | bị giết |----- | 17 (14) | Tấn hầu Dẫn | Cơ Dẫn | 706 - 679 TCN | 28 | em Ai hầu | bị giết |- | 18 (13) | Tấn Vũ công | Cơ Xứng | 679 - 677 TCN | 3 | chắt Mục hầu | |----- | 19 (14) | Tấn Hiến công | Cơ Quỹ | 676 - 651 TCN | 26 | con Vũ công | |- | 20 (15) | | Cơ Hề Tề | 651 TCN | 1 | con Hiến công | bị giết |----- | 21 (15) | | Cơ Trác Tử | 651 TCN | 1 | con Hiến công | bị giết |- | 22 (15) | Tấn Huệ công | Cơ Di Ngô | 650 - 637 TCN | 14 | con Hiến công | |----- | 23 (16) | Tấn Hoài công | Cơ Ngữ | 637 - 636 TCN | 1 | con Huệ công | bị giết |- | 24 (15) | Tấn Văn công | Cơ Trùng Nhĩ | 636 - 628 TCN | 9 | anh Huệ công | |----- | 25 (16) | Tấn Tương công | Cơ Hoan | 627 - 621 TCN | 7 | con Văn công | |- | 26 (17) | Tấn Linh công | Cơ Di Cao | 620 - 607 TCN | 14 | con Tương công | bị giết |----- | 27 (16) | Tấn Thành công | Cơ Hắc Điến | 606 - 600 TCN | 7 | con Văn công | |- | 28 (17) | Tấn Cảnh công | Cơ Nho | 599 - 581 TCN | 19 | con Thành công | |----- | 29 (18) | Tấn Lệ công | Cơ Thọ Mạn | 580 - 573 TCN | 8 | con Cảnh công | bị giết |- | 30 (19) | Tấn Điệu công | Cơ Chu | 572 - 558 TCN | 15 | chắt Tương công | |----- | 31 (20) | Tấn Bình công | Cơ Bưu | 557 - 532 TCN | 26 | con Điệu công | |- | 32 (21) | Tấn Chiêu công | Cơ Di | 531 - 526 TCN | 6 | con Bình công | |----- | 33 (22) | Tấn Khoảnh công | Cơ Khứ Tật | 525 - 512 TCN | 13 | con Chiêu công | |- | 34 (23) | Tấn Định công | Cơ Ngọ | 511 - 475 TCN | 37 | con Khoảnh công | |----- | 35 (24) | Tấn Xuất công | Cơ Tạc | 474 - 458 TCN | 17 | con Định công | bị đuổi |- | 36 (24) | Tấn Ai công | Cơ Kiêu | 457 - 440 TCN | 18 | chắt Chiêu công | |----- | 37 (25) | Tấn U công | Cơ Liễu | 439 - 422 TCN | 18 | con Ai công | bị giết |- | 38 (26) | Tấn Liệt công | Cơ Chỉ | 421 - 395 TCN | 27 | con U công | |----- | 39 (27) | Tấn Hoàn công | Cơ Kỳ | 394 - 378 TCN | 17 | con Liệt công | |- | 40 (28) | Tấn Tĩnh công | Cơ Câu Tửu | 377 – 376 TCN | 2 | con Hoàn công | bị phế |}

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
thumb|[[Nước xám (một dạng nước thải) trong bể lắng]] **Nước thải** là nước được thải ra sau khi đã sử dụng, hoặc được tạo ra trong một quá trình công nghệ và không còn có
phải|nhỏ| Dụng cụ lấy mẫu hình hoa thị được sử dụng để thu thập các mẫu nước ở vùng nước sâu, chẳng hạn như ở đại dương, để kiểm tra chất lượng nước. **Chất lượng
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
frame|phải|Hàn Quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] thumb|right|Giản đồ các nước thời Chiến Quốc **Hàn** () là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc tại Trung Quốc. Nhà nước này tồn tại từ
Dưới đây là danh sách các phiên vương thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong trường hợp một chư hầu quốc bị trừ bỏ vì các lý do như mưu phản, phạm tội,
**Nước nặng** là nước chứa một tỷ lệ đồng vị đơteri (deuterium) cao hơn thông thường, hoặc là **đơteri oxide**, D2O hay ²H2O, hoặc là **đơteri proti oxide**, HDO hay H¹H²O. Các tính chất vật
**Trịnh** (Phồn thể: 鄭國; giản thể: 郑国) là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ quốc gia này nằm trên tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện
**Phong trào Minh Tân** (còn gọi là **phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ**) do **Hội Minh Tân** (kể từ đây trở đi có khi gọi tắt là Hội) đề xướng và lãnh đạo, là
**Tần Hoàn công** (chữ Hán: 秦桓公, trị vì 603 TCN-577 TCN)), tên thật là **Doanh Vinh** (嬴荣), là vị quân chủ thứ 17 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Chiến tranh Tần-Ba-Thục** (316 TCN) là cuộc chiến tranh diễn ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc với sự tham gia của bốn quốc gia là Tần, Ba và Thục và
**Trận Âm Tấn** (chữ Hán: 陰晉之戰, Hán Việt: _Âm Tấn chi chiến_), là cuộc chiến tranh diễn ra vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa hai nước chư hầu là Ngụy và
**Chiến tranh Tấn-Ngô 279-280** là cuộc chiến cuối cùng thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vua Tây Tấn là Tư Mã Viêm phát động chiến tranh và nhanh chóng tiêu diệt nước Đông
Máy Phun Sương Tạo Độ Ẩm, Khuếch Tán Tinh Dầu Vân Gỗ Cổ Cao Tặng Kèm Tinh Dầu Xông Phòng Thiên Nhiên Thông Tin Sản Phẩm» Màu sắc: Vân gỗ sáng và vân gỗ tối.»
**Tần Xuất công** (chữ Hán: 秦出公, trị vì 387 TCN-385 TCN), còn gọi là **Tần Thiếu chủ** (秦少主) hay **Tần Tiểu chủ** (秦小主), là vị quân chủ thứ 28 của nước Tần giữa thời Chiến
**Nước không oxy** là các vùng nước biển, nước ngọt hoặc nước ngầm cạn kiệt oxy hòa tan và là thiếu oxy nghiêm trọng. Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ định nghĩa nước ngầm
Nước hoa hồng cấp ẩm JM Solution Luminous 600ml đủ 3 màu của Hàn Quốc - Dưỡng ẩm sâu, cải thiện kết cấu da Dung tích: 600ml Nước hoa hồng cấp ẩm JM Solution Luminous
̂́ đ̂̉ ̀ ̀ ̂́ ́ ̂̃ ̉ ̀ ̣̂ ̛ ̂ ̀ ̂́, ̣̂ ̀ ̣ ̀ ☎ : ... ☎* Thời gian ship siêu nhanh :Thành Phố : 1-2 ngày ( tùy khu
THÔNG TIN CƠ BẢN Nhãn hiệu: Khác. Loại da: Mọi loại da. Xuất xứ: Pháp. Dạng sản phẩm: Lỏng. Dung tích: 500. Ngày sản xuất: . Hạn sử dụng: 2 năm. CHI TIẾT SẢN PHẨM
̂́ đ̂̉ ̀ ̀ ̂́ ́ ̂̃ ̉ ̀ ̣̂ ̛ ̂ ̀ ̂́, ̣̂ ̀ ̣ ̀ ☎ : ... ☎* Thời gian ship siêu nhanh :Thành Phố : 1-2 ngày ( tùy khu
̂́ đ̂̉ ̀ ̀ ̂́ ́ ̂̃ ̉ ̀ ̣̂ ̛ ̂ ̀ ̂́, ̣̂ ̀ ̣ ̀ ☎ : ... ☎* Thời gian ship siêu nhanh :Thành Phố : 1-2 ngày ( tùy khu
MÔ TẢ SẢN PHẨMMáy Xông Tinh Dầu Vân Gỗ Phun Sương Tạo Ẩm Và Sát Trùng Không KhíTHÔNG TIN SẢN PHẨM: + Máy phun sương chuyên dùng phòng rộng 10-20m2, Phòng có điều hòa, Phòng
Thương hiệu: JMsolution Xuất xứ: Hàn QuốcDung tích: 600ml Nước hoa hồng của hãng JM Solution là sản phẩm được chiết xuất hoàn toàn từ thiên nhiên gồm bột ngọc trai, mật ong, hoa hồng
Giới thiệuTinh chất cấp nước Comfort Zone Hydramemory Serum là serum tăng cường nước tiêu biểu của Comfort Zone. Dưỡng ẩm luôn là một bước quan trọng trong quá trình skincare, giúp da cân bằng
Thương hiệu: JMsolution Xuất xứ: Hàn QuốcDung tích: 600ml Nước hoa hồng của hãng JM Solution là sản phẩm được chiết xuất hoàn toàn từ thiên nhiên gồm bột ngọc trai, mật ong, hoa hồng
MÔ TẢ SẢN PHẨMKhăn tắm 70x140cm xuất Hàn cao cấp siêu mềm mịnKhăn choàng tắm giúp cho tất cả mọi nhu cầu từ làm khăn tắm ,khăn gội , khăn quấn béPhù hợp cho mọi
MÔ TẢ SẢN PHẨM- Khuếch Tán Nước Hoa W.DRESSROOM tạo ra một mùi hương sang trọng, quyến rũ dựa trên sự hiện đại và thiết kế hợp thời trang mà bạn có thể thấy trên
Toner là một bước không thể bỏ qua trong quá trình chăm sóc da hằng ngày.mới ra mắt của thương hiệucó tác dụng cấp ẩm và làn dịu mát làn da tuyệt vời. Hiện nay,
MÔ TẢ SẢN PHẨM- Khuếch Tán Nước Hoa W.DRESSROOM tạo ra một mùi hương sang trọng, quyến rũ dựa trên sự hiện đại và thiết kế hợp thời trang mà bạn có thể thấy trên
Toner là một bước không thể bỏ qua trong quá trình chăm sóc da hằng ngày.mới ra mắt của thương hiệucó tác dụng cấp ẩm và làn dịu mát làn da tuyệt vời. Hiện nay,
Toner là một bước không thể bỏ qua trong quá trình chăm sóc da hằng ngày.mới ra mắt của thương hiệucó tác dụng cấp ẩm và làn dịu mát làn da tuyệt vời. Hiện nay,
Với teen chúng mình, hầu hết thời gian là dành để đi học và đi chơi nên các nàng có thể lựa chọn mùi hương nhẹ nhàng, trang nhã mà vẫn năng động. Với thời
MÔ TẢ SẢN PHẨMNước Súc Miệng Diệt Khuẩn Kin Gingival Mouthwash 250mlNước súc miệng diệt khuẩn Kin Gingival Mouthwash với công thức không cồn an toàn, chứa hoạt chất diệt vi khuẩn giúp diệt khuẩn,
MÔ TẢ SẢN PHẨMNước Súc Miệng Diệt Khuẩn Kin Gingival Mouthwash 250mlNước súc miệng diệt khuẩn Kin Gingival Mouthwash với công thức không cồn an toàn, chứa hoạt chất giúp diệt khuẩn, ngăn ngừa phát
Cơ thể chúng ta sẽ liên tục bị mất nước do thời tiết khô nóng hay do các hoạt động thể chất mà lượng nước được bổ sung hằng ngày lại hiếm khi đầy đủ.
Hoa bưởi là loại hoa cực kỳ khó để chiết xuất. Nếu ởtỷ lệ cao thì khiến người ngửi váng vất, nôn nao như người phụ nữ đang thời kỳ nghén. Nên đích thị, để
Cơ thể chúng ta sẽ liên tục bị mất nước do thời tiết khô nóng hay do các hoạt động thể chất mà lượng nước được bổ sung hằng ngày lại hiếm khi đầy đủ.
Xuất xứ Tây Ban NhaDung tích 250mlNước súc miệng Kin với công thức chứa hoạt chất diệt khuẩn tối ưu, có tác dụng ngăn ngừa và phòng chống các bệnh về răng miệng như sâu
Cơ thể chúng ta sẽ liên tục bị mất nước do thời tiết khô nóng hay do các hoạt động thể chất mà lượng nước được bổ sung hằng ngày lại hiếm khi đầy đủ.
MÔ TẢ SẢN PHẨMComfort Zone Hydramemory Serum - Tăng cường độ ẩm tổng thể suốt 24 giờ, giảm tình trạng mất nước trên da ngay sau 1 giờKhác với các sản phẩm thông thường chỉ
MÔ TẢ SẢN PHẨMComfort Zone Hydramemory Serum - Tăng cường độ ẩm tổng thể suốt 24 giờ, giảm tình trạng mất nước trên da ngay sau 1 giờKhác với các sản phẩm thông thường chỉ
**Tần Tổ** (), tự **Tử Nam** (子徒) Năm 72, thời Hán Minh Đế, Tần Tổ được phối thờ trong Khổng miếu.
Nước Súc Miệng Propolinse Nhật Bản 600ml - Màu vàngThương hiệu: PropolinseXuất xứ: Nhật BảnDung tích: 600mlNước súc miệng Propolinse là sản phẩm chăm sóc răng miệng đến từ thương hiệu Propolinse của Nhật Bản,
Nước Súc Miệng Propolinse Nhật Bản 600ml - Màu vàngThương hiệu:PropolinseXuất xứ: Nhật BảnDung tích:600mlNước súc miệng Propolinse là sản phẩm chăm sóc răng miệng đến từ thương hiệu Propolinse của Nhật Bản, với thành
Nước Hoa Nội Địa DuBai ROSE & ROMANCE 100MLMẫu chai nước hoa Dubai mùi hoa hồng cực sexy quyến rũ,Chai 100ml to đẹp, vừa dùng vừa ngắm 2 năm không hếtHương nhẹ nhàng mà sang