✨Sở (nước)

Sở (nước)

Sở (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / Srikrung) đôi khi được gọi Kinh Sở (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời Hán-Sở. Cương vực của quốc gia này rất rộng bao gồm vùng đất nam và bắc sông Hoài Hà và Dương Tử.

Suốt dọc lịch sử, Sở tận dụng được địa thế núi non hiểm trở cận Tây để thôn tính dần 45 phiên khác ở bình nguyên Hoa Trung, có lúc lấn át cả thiên tử, dẫu vậy vẫn duy trì hình thái phong kiến chứ không chuyển hóa sang tập quyền. Quốc tính của Sở là họ Mị.

Trong thời kỳ hưng thịnh nhất của mình, Sở có lúc lấn át cả thiên tử nhà Chu và các chư hầu Xuân Thu-Chiến Quốc hùng mạnh còn lại. Những thần dân cũ của nước Sở trước khi bị nước Tần (thời Tần Thủy Hoàng) thôn tính như là Hạng Vũ, Lưu Bang và Hàn Tín đều đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại bởi họ có ảnh hưởng quyết định trong những sự kiện mang tính bước ngoặt: sự sụp đổ sớm của nhà Tần (hay đế quốc Tần), chiến tranh Hán-Sở và sự ra đời của nhà Hán (hay đế quốc Hán). Vậy là triều Hán (mà từ đó ra đời các tên gọi phổ biến theo sau như Hán tộc "Hànzú", Hán nhân "Hànrén", Hán tự "Hànzì", Hán ngữ "Hànyǔ") đã được khai sinh bởi những người Sở cũ là Lưu Bang và Hàn Tín.

Lịch sử

Thủy tổ

Theo Sử Ký, mục Sở thế gia thì tổ tiên của quốc vương Sở là Xứng con trai Chuyên Húc, một trong Ngũ Đế trong huyền sử Trung Quốc. Xứng sinh Quyển Chương, Quyển Chương sinh Trọng Lê và Ngô Hồi, 2 anh em có công dẹp loạn Cộng Công nên thay nhau giữ chức hỏa chính thời Đế Cốc Cao Tân thị với danh hiệu Chúc Dung. Ngô Hồi sinh Lục Chung, Lục Chung sinh 6 trai: Côn Ngô, Tham Hồ, Bành Tổ, Hội Nhân, Tào An và Quý Liên. Côn Ngô được nhà Hạ phong hầu nhưng đời sau bị vua Thành Thang nhà Thương diệt, Bành Tổ cũng được Đại Bành thị quốc nhưng đời sau bị vương hậu Phụ Hảo của vua Vũ Đinh nhà Thương đánh bại. Quý Liên lấy họ Mị được xem là thủy tổ của các vua Sở sau này.

Triều đại

Sở quốc - [[triện văn, 220 TCN]] thumb|right|Giản đồ các nước thời Chiến Quốc

Thụ phong ở đất Kinh

Tổ tiên của Sở là Dục Hùng, được cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca , giữ chức quan trong triều Thương. Dục Hùng đổi thành họ Hùng. Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương, có công trong việc tiêu diệt nhà Thương, nên con ông là Hùng Lệ và cháu ông là Hùng Cuồng đều được phong quan trong triều Chu. Đến đời Hùng Dịch thì được Chu Thành Vương phong cho đất Kinh, làm chư hầu kiến quốc, tước hiệu là Sở tử. Từ thời điểm đó, Sở chính thức trở thành nước chư hầu của nhà Chu. Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tại Đan Dương.

Xưng vương lần thứ nhất

Đất tổ ở nam Trường Giang (thuộc phía đông nam tỉnh Hồ Bắc ngày nay), nước Sở nằm ngoài các cuộc tranh chấp tại Trung nguyên, tự do phát triển thế lực ở phương Nam bằng các thành công trong những chiến dịch quân sự mở rộng lãnh thổ. Sở nổi tiếng vì khả năng ép buộc và thu hút các nước khác gia nhập liên minh với họ. Từ một nước độc lập nhỏ ban đầu, Sở phát triển trở thành một đế chế rộng lớn và giàu mạnh so với chư hầu. Đầu tiên, Sở củng cố quyền lực bằng cách thu hút các nước chư hầu nhỏ hơn thành các nước phụ dung của họ ở vùng Hồ Bắc; sau đó họ mở rộng ra phía bắc về phía Đồng bằng Hoa Bắc.

Đến thời Sở Hùng Cừ (khoảng năm 877 TCN), nhà Chu cũng bước vào giai đoạn suy yếu, mà nước Sở tiếp tục lớn mạnh. Để chứng tỏ uy thế, Hùng Cừ phong cho người con trưởng là Hùng Vô Khang làm Câu Nghi Vương, người con thứ là Hùng Chí Hồng làm Ngạc Vương và người con út là Hùng Chấp Tỳ là Việt Chương Vương. Nước Sở ở xa Trung Nguyên nên sự ràng buộc với nhà Chu cũng lỏng lẻo. Đến năm 706 TCN, vua Sở là Hùng Thông (741 TCN-690 TCN) nhận thấy tổ tiên mình là thầy của Chu Văn vương, mà thế lực của mình hơn hẳn các nước Trung Nguyên nên không hài lòng với tược vị tử nữa. Hùng Thông dùng chính sách chinh phạt các chư hầu khác để tạo uy thế ép nhà Chu nâng tước phong cho mình. Năm 704 TCN, Hùng Thông mời các chư hầu là Ba, Dung, Bộc, Đặng, Giảo, La, Chẩn, Thân, Giang… đến dự hội chư hầu ở đất Lộc thuộc lãnh thổ của Sở. Thấy nước Tùy và nước Hoàng không đến dự, Hùng Thông bèn sai sứ đến trách cứ nước Hoàng và tấn công nước Tùy, buộc vua Tùy giảng hòa và quy phục.

Năm 704 TCN, Hùng Thông tự làm lễ xưng vương hiệu, tức Sở Vũ vương bất chấp sự phản đối của vua nhà Chu, Lô, La, trở thành bá chủ cả một miền Hoa Nam.

Dời đô đến đất Dĩnh

Sau khi Hùng Thông qua đời, con là Hùng Xi lên nối ngôi (Sở Văn vương), thế lực của Sở vẫn cường thịnh. Hùng Xi dời đô sang đất Dĩnh và mở rộng thế lực lên vùng Trung Nguyên, diệt các nước Tức, Thân, Đặng và đánh nước Sái, bắt được vua của Sái.

Bước sang thời Sở Thành vương (672 TCN-626 TCN), dưới sự lãnh đạo cải cách của lệnh doãn (tướng quốc) Tử Văn, Sở bước sang một giai đoạn mới: tiến lên tranh bá với các nước ở Trung Nguyên. Sau những thất bại ban đầu trước nước bá chủ vào thời điểm đó là Tề, cuối cùng, năm 637 TCN, khi Tề đã suy yếu, Sở đã đạt được mục đích của mình khi đánh bại đối thủ tranh bá là Tống trong trận Hoằng Thủy. Thắng lợi này là một bước quan trọng trên con đường xưng bá của Sở.

Tuy nhiên sau đó, nước Tấn ở miền Tây Bắc cũng đang trên đà lớn mạnh và cũng có tham vọng tranh bá. Cuối cùng, quân đội hai nước cũng đã bước vào trận chiến tranh giành ngôi bá với nhau và Tấn đã chiến thắng khi vượt qua Sở ở trận Thành Bộc, qua đó chính thức bước lên ngôi bá chủ. Trận đánh này cũng đã mở đầu cho 100 năm tranh hùng giữa hai nước Tấn và Sở.

Sở Trang vương xưng bá

Giản đồ các nước lớn thời Xuân Thu
Sau nhiều lần giao tranh với Tấn, Sở cũng đã bước lên được ngôi bá chủ ở Trung Nguyên dưới thời Sở Trang vương (614 TCN-591 TCN). Ở giai đoạn này, Sở Trang vương thi hành chính sách của Tôn Thúc Ngao, phát triển cả về văn hóa lẫn quân đội. Sử ký có ghi lại sự kiện vào năm 606 TCN, Sở Trang Vương mang quân đánh ngoại tộc Nhung, đóng quân khắp một dải Lạc Thủy. Thế lực hùng mạnh, vua Sở sai người hỏi lấy chín đỉnh - vốn là vật linh thiêng trong tông miếu của nhà Chu, tượng trưng cho quyền lực của thiên tử. Chu Định vương phải sai Vương Tôn Mãn đi lựa lời từ chối, quân Sở mới rút đi, buộc Trịnh phải quy phục. Sau đó, quân Tấn mới đến cứu Trịnh và giao chiến với quân Sở ở trận Bật. Cuối cùng, quân Sở đánh tan được quân Tấn. Từ chiến thắng này, phần lớn các chư hầu Trung Nguyên (trừ một số nước lớn hay ở xa như Tấn, Tề, Lỗ) đều phải thần phục Sở. Sở Trang vương trở thành một trong Ngũ bá của thời Xuân Thu.

Cùng xưng bá với Tấn

Sau khi Sở Trang vương qua đời, thế lực của nước Tấn cũng phục hồi và lại tiếp tục tranh giành ngôi bá chủ với Sở, và Sở đã thất bại trong trận Yển Lăng năm 575 TCN, qua đó mất đi uy thế với các chư hầu khác ở Trung Nguyên.

Năm 546 TCN, do sự sắp đặt của đại thần nước Tống là Hướng Tuất, Tấn và Sở quyết định giảng hòa với nhau để cùng làm bá chủ. Cùng năm đó, hai vị tướng quốc của Tấn và Sở là Triệu Vũ và Khuất Kiến đã triệu tập 14 nước chư hầu là Tấn, Sở, Tề, Tần, Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ, Trần, Sái, Tào, Hứa, Chu, Đằng đến hội ở đất Tống cùng lập minh ước. Theo đó, ngoại trừ Tề, Tần là hai nước lớn, các nước còn lại chia nhau làm thuộc quốc của Tấn và Sở, ngôi vị bá chủ do hai nước Tấn, Sở thay nhau nắm giữ. Cuộc hội thề này đã chấm dứt thời đại tranh hùng với Tấn gần 100 năm của Sở.

Thời kì tạm suy yếu

Tranh chấp nội tộc

Sau khi chấm dứt thời kì chiến tranh giành ngôi bá, thì nội loạn lại phát sinh ở Sở, cộng thêm nước Ngô ở phía đông phát triển cường thịnh, làm thế lực của Sở suy yếu hơn trước. Trong 12 năm từ 541 TCN đến 529 TCN, ngôi quốc vương của Sở đã thay đổi đến 4 lần. Sở Giáp Ngao (con Sở Khang vương, trị vì từ 544 TCN-542 TCN) vừa lên ngôi được ba năm thì bị chú là công tử Vi đoạt ngôi và giết chết. Công tử Vi tự xưng là Sở Linh vương. Sở Linh vương ra sức phô trương thế lực, đánh và diệt hai nước Trần, Sái, gây chiến với nước Ngô. Tuy nhiên đến năm 529 TCN, khi ông tiến hành chiến tranh với nước Từ thì ở kinh đô, ba người em là công tử Bỉ, công tử Hắc Quang và công tử Khí Tật nổi dậy. Sở Linh vương cùng đường, phải tự tử. Sau đó, công tử Bỉ vừa lên ngôi được 3 tháng cũng bị em là Khí Tật đoạt ngôi, tức Sở Bình vương (529 TCN-516 TCN). Nội loạn nước Sở chấm dứt với việc ngôi vua chuyển về ngành thứ, nhưng kèm theo đó là họa ngoại xâm từ phía đông cũng bắt đầu đe dọa đến Sở.

Chiến tranh với Ngô

Giản đồ các nước cuối thời Xuân Thu

Từ thời Sở Cung vương (590 TCN-561 TCN, cha Sở Bình vương), thế lực nước Ngô đã phát triển, vua Ngô là Ngô Thọ Mộng tự xưng vương. Kể từ đó, Ngô và Sở lại xảy ra chiến tranh. Chỉ riêng trong thời Sở Bình vương, hai nước đã đánh nhau tới 4 lần. Sang thời Sở Chiêu vương thì con số này là 7. Trong những trận giao tranh đó, quân nước Ngô thường tỏ ra thắng thế, chiếm được đất đai của Sở.

Để phòng tránh sự xâm lấn của Ngô, Sở Bình vương phong cho Nang Ngõa làm lệnh doãn. Nang Ngõa cho xây thành vững chắc để củng cố phòng thủ.

Tuy đã khôi phục kinh đô, song sức mạnh của Sở cũng đã suy giảm. Để tránh sự xâm lược của quân Ngô, năm 504 TCN, Sở Chiêu vương dời đô từ đất Dĩnh sang đất Nhược, đổi tên lại là Dĩnh, Sái (447 TCN) và Kỉ (445 TCN). Năm 481 TCN, Sở đánh bại quân của nước Ngụy (vốn là một khanh tộc của nước Tấn) là nước chư hầu hùng mạnh nhất vào thời điểm đó. Mặc dù không lâu sau đó, Ngô Khởi bị sát hại, nhưng cuộc cải cách của ông vẫn có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao thực lực của Sở, đưa Sở trở thành một trong bảy nước chư hầu hùng mạnh nhất thời đó (Thất hùng).

Quốc lực cường đại

Thời đại hùng mạnh nhất của Sở là khoảng thời gian trị vì của Sở Uy vương. Dưới thời đại của mình, Sở Uy vương mở rộng thế lực đến tận nước Ba, thôn tính nước Việt ở phía đông, đại thắng quân Tề ở Từ Châu. Sử ký có ghi vài dòng về nước Sở thời này như sau:

:"Sở là nước mạnh trong thiên hạ, ở phía tây có quận Kiềm Trung, quận Vu; phía đông có đất Hạ Châu, Hải Dương; phía nam có hồ Động Đình, quận Thương Ngô; phía bắc có cửa ải Hinh, đất Tuần Dương. Đất đai rộng hơn năm nghìn dặm, tướng sĩ mặc áo giáp trăm vạn người, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con, thóc gạo đủ chi dùng mười năm. Đó là cái vốn để làm Bá làm Vương".

Khủng hoảng và diệt vong

Sở Hoài vương lưu vong

Sau khi Sở Uy vương qua đời, nước Sở cũng bước vào thời kì suy vong. Vị vua nối ngôi, Sở Hoài vương bước vào tình thế đối đầu với nước Tần hùng mạnh ở phía tây. Cuối cùng, hai nước cũng bước vào trận chiến giành quyền bá vương với nhau vào năm 312 TCN. Mặc dù binh lực của Sở không thua kém Tần, nhưng do sự chuẩn bị chưa tốt nên quân Sở gặp thất bại ở Lam Điền, mất 600 dặm Hán Trung về tay Tần.

Năm 299 TCN, Sở Hoài vương bị vua Tần lừa sang hội rồi bắt giữ, sau chết ở Tần (296 TCN). Nhân nước Sở rối loạn, vua Tần lại đem quân đánh Sở, chiếm được Vũ Quan, và dần tiến vào sâu trong lãnh thổ của Sở. Nước Sở ngày một suy yếu, thất thế không chỉ với Tần mà còn với cả nước Tề ở phía đông.

Năm 286 TCN, Sở liên minh cùng với nước Tề và nước Ngụy, cùng đánh nước Tống, chiếm được một phần lãnh thổ của Tống.

Bị mất Dĩnh đô

Bản đồ Chiến Quốc năm 260 TCN.

Quốc lực của Sở nhanh chóng suy yếu, trong khi nước Tần lại ngày một lớn mạnh. Năm 280 TCN, quân Tần đánh bại được quân Sở, đến năm 278 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi dẫn quân chiếm các đất Yên và Lăng, sau đó tràn vào Dĩnh Đô. Trước sức mạnh của quân Tần, quân Sở không chống nổi, Sở vương phải bỏ chạy khỏi Dĩnh Đô, dời về đất Trần. Khu lăng mộ các tiên vương nước Sở bị Bạch Khởi thiêu trụi nên bị đổi gọi là Di Lăng.

Năm 277 TCN, Bạch Khởi chiếm đất đất Vu Trung và đất Kiềm Trung của nước Sở, sáp nhập vào Tần. Nước Sở mất đi toàn bộ miền đất phía tây và trở nên yếu thế trước Tần.

Tranh chấp quyền hành

Bước sang thời Sở Khảo Liệt vương (262 TCN-238 TCN), dưới sự điều hành của lệnh doãn là Hoàng Yết, nước Sở chủ trương mở rộng thế lực về phía đông, thôn tính nước Lỗ ở phía bắc năm 256 TCN. Năm 241 TCN, Sở thiên đô từ đất Trần về vùng Thọ Xuân để tránh xa nước Tần.

Sau khi Sở Khảo Liệt vương qua đời, nội bộ của Sở lại phát sinh tranh chấp. Hoàng Yết trước đó muốn được làm cha vua, đã dâng một người thiếp là Lý thị đã có mang cho vua Sở, được vua Sở sủng ái, người con trai của Lý thị (vốn là con Hoàng Yết) là Hãn được phong làm thái tử.

Năm 238 TCN, Sở Khảo Liệt vương qua đời, người anh của Lý thị là Lý Viên bày kế đặt phục binh trong cung đợi Hoàng Yết vào rồi giết chết, tôn Hãn làm vua, tức Sở U vương (237 TCN-227 TCN. Lý Viên tự xưng là lệnh doãn, điều khiển quốc chính.

Năm 227 TCN, người con thứ của Sở Khảo Liệt vương là Phụ Sô giết chết Lý thị, lên ngôi vua, trả ngôi về cho dòng dõi nước Sở. Năm 225 TCN, Tần vương Chính cử Lý Tín đưa 20 vạn quân đánh nước Sở.

Không bao lâu sau khi diệt Sở, Tần vương Chính thống nhất Trung Quốc, tự xưng là Tần Thủy Hoàng lập ra nhà Tần. Cát Anh tiến đến Đông Thành, tìm được Tương Cương là dòng dõi vua Sở bèn lập làm Sở Vương, tái lập nước Sở.

Trong khi đó, Trần Thắng cũng liên tiếp giành được thắng lợi trước quân đội nhà Tần chiếm được đất Trần, tự lập làm Trương Sở vương. Như vậy cùng lúc đó có tới hai người tự xưng là vua Sở.

Cát Anh ở Đông Thành nghe tin Trần Thắng tự lập, bèn giết Tương Cương, trở về với Trần Thắng.

Tuy nhiên sau đó Trần Thắng không còn được lòng người, các thủ hạ ly khai, tự lập làm vương. Lúc bấy giờ, con tướng quân Hạng Yên là Hạng Lương khởi nghĩa ở đất Ngô, nghe tin Cảnh Câu tự lập bèn đem quân đánh, giết Sở Giả vương.

Thời Sở Nghĩa Đế

Tháng 6 năm 208 TCN, Hạng Lương tìm được con cháu nước Sở là Mi Tâm, bèn lập lên làm Sở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần. Hoài vương phong Trần Anh làm Thượng trụ quốc, Hạng Lương làm Vũ Tín quân trước nhưng Hạng Vũ nắm được quyền hành, tự lập làm Sở Bá vương, tôn Hoài vương làm Sở Nghĩa Đế. Các chữ được khẳng định là thuộc ngôn ngữ Sở được liệt kê tại [http://www.umass.edu/wsp/results/languages/chu/lexicon.html Dự án nghiên cứu ngôn ngữ Sở tại Đại học Massachusetts Amherst]

Những người đất Sở nổi tiếng

  • Khuất Nguyên, nhà thơ nổi tiếng thời cổ đại. Ông là một vị quan trong triều và là người yêu nước, ông đã đưa ra ý kiến thống nhất Sở với các nước chư hầu khác để chống lại sự bành trướng của Tần, tuy nhiên không được ai nghe theo; ông bị vua Sở xua đuổi. Theo tục truyền, đau khổ khi biết tin về cuộc xâm lược của Tần, ông đã trầm mình tại sông Mịch La (汩罗江).
  • Lưu Bang, hoàng đế sáng lập nhà Hán, sinh trưởng trên phần đất thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay, vốn là đất Sở thời Chiến Quốc.
  • Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở cũ, nổi dậy và trở thành một thủ lĩnh chống Tần, sau khi đánh tan quân Tần, đã tự xưng là "Tây Sở Bá Vương", là một đối thủ của người sáng lập Hán triều, Lưu Bang. Ông là một vị tướng tài ba trên chiến trường nhưng lại kiêu ngạo nên đã phải chịu thất bại.
  • Dưỡng Do Cơ, danh tướng dưới thời Sở Trang Vương và Sở Cung Vương (khoảng 600 TCN), nổi tiếng với tài bắn tên. Bên lề trận Yên Lăng năm 575 TCN, lúc trận đánh chưa khai màn, các tướng sĩ tập dượt phía sau trại, ông cho đánh dấu 3 chiếc lá cây dương 1, 2, 3, rồi đứng cách xa 100 bước, lần lượt bắn 3 mũi tên xuyên thủng 3 chiếc lá theo đúng thứ tự. Tài bắn này đã trở nên câu thành ngữ "bách bộ xuyên dương" còn truyền tụng đến ngày nay.

Vương tộc thế phổ

Nước Sở tính từ đời Dục Hùng tới đời Xương Bình quân bị Tần diệt năm 223 TCN gồm có 46 vua. Nước Sở được lập lại cuối thời Tần, truyền được 5 vua nữa, tổng cộng 51 vua. Dưới đây là bảng liệt kê các vị vua nước Sở (theo Sử ký)

! Thứ tự (thế hệ) ! Thụy hiệu ! Tên húy ! Thời gian ở ngôi ! Số năm ! Quan hệ với vua trước ! Ghi chú |----- | 1 (1) | Sở Dục Hùng | Dục Hùng | | | thầy của Chu Văn vương | |- | 2 (2) | Sở Hùng Lệ | Hùng Lệ/Mị Lệ | | | con Dục Hùng | |----- | 3 (3) | Sở Hùng Cuồng | Hùng Cuồng/Mị Cuồng | | | con Hùng Lệ | |- | 4 (4) | Sở Hùng Dịch | Hùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh) | | | con Hùng Cuồng | |----- | 5 (5) | Sở Hùng Ngải | Hùng Ngải/Mị Ngải | | | con Hùng Dịch | |- | 6 (6) | Sở Hùng Đán | Hùng Đán/Mị Đán | | | con Hùng Ngải | |----- | 7 (7) | Sở Hùng Thắng | Hùng Thắng/Mị Thắng | | | con Hùng Đán | |- | 8 (7) | Sở Hùng Dương | Hùng Dương/Mị Dương | | | em Hùng Thắng | |----- | 9 (8) | Sở Hùng Cừ | Hùng Cừ/Mị Cừ | | | con Hùng Dương | |- | 10 (9) | Sở Hùng Chí | Hùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồng | | | con Hùng Cừ | |----- | 11 (9) | Sở Hùng Duyên | Hùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì | ?-848 TCN | | em Hùng Chí | |- | 12 (10) | Sở Hùng Dũng | Hùng Dũng/Mị Dũng | 747 TCN-838 TCN | 10 | con Hùng Duyên | |----- | 13 (10) | Sở Hùng Nghiêm | Hùng Nghiêm/Mị Nguyên | 837 TCN-828 TCN | 10 | em Hùng Dũng | |- | 14 (11) | Sở Hùng Sương | Hùng Sương/Mị Sương/Bá Sương | 827 TCN - 822 TCN | 6 | con Hùng Nghiêm | |----- | 15 (11) | Sở Hùng Tuân | Hùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân | 821 TCN - 800 TCN | 22 | em Hùng Sương | giành ngôi với hai anh |- | 16 (12) | Sở Hùng Ngạc | Hùng Ngạc/Mị Ngạc | 799 TCN - 791 TCN | 9 | con Hùng Tuấn | |----- | 17 (12) | Sở Nhược Ngao | Hùng Nghi (Mị Nghi) | 790 TCN - 764 TCN | 27 | em Hùng Ngạc | |- | 18 (13) | Sở Tiêu Ngao | Hùng Khảm/Mị Khảm | 763 TCN - 758 TCN | 6 | con Nhược Ngao | |----- | 19 (14) | Sở Phần Mạo/Sở Lệ vương | Hùng Thuận/Mị Thuận | 757 TCN - 741 TCN | 17 | con Tiêu Ngao | |- | 20 (15) | Sở Vũ vương | Hùng Thông/Mị Thông | 740 TCN - Tháng 3/690 TCN | 51 | con Phần Mạo | |----- | 21 (16) | Sở Văn vương | Hùng Xi/Mị Xi | 689 TCN - 6/675 TCN TCN | 15 | con Vũ vương | |- | 22 (17) | Sở Đổ Ngao | Hùng Gian/Mị Gian | 674 TCN - 672 TCN | 3 | con Văn vương | bị giết |----- | 23 (17) | Sở Thành vương | Hùng Uẩn/Mị Uẩn | 671 TCN - Tháng 10/626 TCN | 46 | em Đổ Ngao | tự sát |- | 24 (18) | Sở Mục vương | Hùng Thương /Mị Thương | 625 TCN - 614 TCN | 12 | con Mục vương | |----- | 25 (19) | Sở Trang vương | Hùng Lữ (Mị Lữ) | 613 TCN - 591 TCN | 23 | con Mục vương | |- | 26 (20) | Sở Cung vương | Hùng Thẩm (Mị Thẩm) | 590 TCN - 560 TCN | 31 | con Trang vương | |----- | 27 (21) | Sở Khang vương | Hùng Chiêu/Mị Chiêu | 559 TCN - Tháng 9/545 TCN | 15 | con trưởng Cung vương | |- | 28 (22) | Sở Giáp Ngao | Hùng Viên (Mị Viên) | 544 TCN - 541 TCN | 4 | con Khang vương | bị giết |----- | 29 (21) | Sở Linh vương | Hùng Vi (Mị Vi) | 540 TCN - 529 TCN | 12 | con Cung vương | bị giết |- | 30 (21) | Sở vương Bỉ/Sở Ti Ngao | Hùng Bỉ/Mị Bỉ | 529 TCN | 1 | em Linh vương | tự sát |----- | 31 (21) | Sở Bình vương | Hùng Khí Tật/Hùng Cư | 528 TCN - Tháng 9/516 TCN | 13 | em Bỉ | |- | 32 (22) | Sở Chiêu vương | Hùng (Mị) Trân/Chẩn | 515 TCN - Tháng 7/489 TCN | 27 | con Bình vương | |----- | 33 (23) | Sở Huệ vương | Hùng Chương (Mị Chương) | 488 TCN - 432 TCN | 57 | con Chiêu vương | |- | 34 (24) | Sở Giản vương | Hùng Trung (Mị Trung) | 431 TCN - 408 TCN | 24 | con Huệ vương | |----- | 35 (25) | Sở Thanh vương | Hùng Đương (Mị Đương) | 407 TCN - 402 TCN | 6 | con Giản vương | bị giết |- | 36 (26) | Sở Điệu vương | Hùng Nghi (Mị Nghi) | 401 TCN - 381 TCN | 21 | con Thanh vương | bị bắn vào thây |----- | 37 (27) | Sở Túc vương | Hùng Tang (Mị Tang) | 380 TCN - 370 TCN | 11 | con Điệu vương | |- | 38 (27) | Sở Tuyên vương | Hùng/Mị Lương Phu | 369 TCN - 340 TCN | 30 | em Túc vương | |----- | 39 (28) | Sở Uy vương | Hùng Thương/Mị Thương | 339 TCN - 329 TCN | 11 | con Tuyên vương | |- | 40 (29) | Sở Hoài vương | Hùng Hòe (Mị Hòe) | 328 TCN - 299 TCN | 30 | con Uy vương | bị giam ở Tần | |----- | 41 (30) | Sở Tương vương | Hùng Hoành (Mị Hoành) | 298 TCN - 263 TCN | 36 | con Hoài vương | |- | 42 (31) | Sở Khảo Liệt vương | Hùng Nguyên/Mị Nguyên | 262 TCN - 238 TCN | 25 | con Tương vương | |----- | 43 (32) | Sở U vương | Hùng Hãn/Mị Hãn | 237 TCN - 228 TCN | 10 | con Khảo Liệt vương | |- | 44 (32) | Sở Ai vương | Hùng Do (Mị Do) | 228 | 1 | em U vương | bị giết |----- | 45 (32) | Sở vương Phụ Sô | Hùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô | 227 TCN - 223 TCN | 5 | anh Ai vương | bị bắt |- | 46 (32) | Xương Bình quân | Hùng Khải (Mị Khải) | 223 TCN | 1 | anh Phụ Sô | tử trận |----- | 47 | | Tương Cương | 209 TCN | 1 | | bị giết |- | 48 | Sở Ẩn vương | Trần Thắng | 209 - 208 TCN | 2 | khởi nghĩa nông dân | bị giết |----- | 49 | Sở Giả vương | Cảnh Câu/Mị Câu | 208 TCN | 1 | con cháu nước Sở | bị giết |- | 50 | Sở Nghĩa Đế | Hùng Tâm/Mị Tâm | 208 TCN - 206 TCN | 3 | dòng dõi vua Sở | bị giết |---- | 51 | Sở Bá vương | Hạng Vũ/Hạng Tịch | 206 TCN - 202 TCN | 5 | | tự tử |}

Thế phả các quân chủ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Aquaphobia** () là một hội chứng sợ nước. Aquaphobia được coi là một chứng sợ hãi cụ thể đối với loại môi trường tự nhiên trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
Cơ Sở Nước Khoáng Nguyễn Lê chuyên sản xuất và mua bán nước uống đóng chai, bình, bán buôn tạp hóa. Địa chỉ: 45/18, Lê Thị Hồng Gấm, P. Vĩnh Thanh, TP Rạch Giá, Kiên
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Sở Chiêu vương** (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị **Hùng** (熊) tính **Mị** (芈), tên **Trân** (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở -
phải|Bản đồ các [[quốc gia theo mật độ dân số, trên kilômét vuông. (Xem _Danh sách quốc gia theo mật độ dân số._)]] phải|Các vùng có mật độ dân số cao, tính toán năm 1994.
nhỏ|Nước sạch là một vấn nạn trong tương lai của nhân loại Với tình trạng ô nhiễm ngày một nặng và dân số ngày càng tăng, nước sạch được dự báo sẽ sớm trở thành
**Sở Trang vương** (chữ Hán: 楚莊王, ? - 591 TCN), tên thật là **Hùng Lữ** (熊旅), hay **Mị Lữ** (芈旅), là vị vua thứ 25 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Cung vương** (chữ Hán: 楚共王 hay 楚龔王, 600 TCN-560 TCN), tên thật là **Hùng Thẩm** (熊審) hay **Mị Thẩm** (羋審), là vị vua thứ 26 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Hoài vương** (楚懷王,355 TCN- 296 TCN, trị vì: 328 TCN-299 TCN), tên thật là **Hùng Hoè** (熊槐) hay **Mị Hòe** (芈槐), là vị vua thứ 40 của nước Sở - chư hầu nhà Chu
**Ô nhiễm nguồn nước ngầm** hay **ô nhiễm nước ngầm** xảy ra khi các chất ô nhiễm được thải ra mặt đất và xâm nhập vào nước ngầm. Loại ô nhiễm nước này cũng có
phải|nhỏ| Dụng cụ lấy mẫu hình hoa thị được sử dụng để thu thập các mẫu nước ở vùng nước sâu, chẳng hạn như ở đại dương, để kiểm tra chất lượng nước. **Chất lượng
**Hệ thống thoát nước** (tiếng Anh: _Sewerage_) hoặc **hệ thống thoát nước thải** là cơ sở hạ tầng dùng để dẫn nước thải hoặc nước mưa bằng ống thoát. Nó bao gồm các thành phần
**Ngô** (Phồn thể: 吳國; giản thể: 吴国), còn gọi là **Câu Ngô** (句吴) hay **Công Ngô** (工吴; 攻吾), là các tên gọi của một nước chư hầu của nhà Chu từ khi triều đại này
[[Tập tin:2020 UN Human Development Report.svg|thumb|Bản đồ thế giới phân loại **chỉ số phát triển con người** (dựa trên dữ liệu năm 2019, công bố năm 2020). |upright=1.9|alt=Bản đồ thế giới]] [[Tập tin:Countries by Human
**Chế định Chủ tịch nước Việt Nam** qua các bản Hiến pháp là tổng thể các quy định trong các bản Hiến pháp Việt Nam về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn
**Tùy** () là một nước chư hầu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Vị trí nước Tùy nằm tại lưu vực Giang Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc hiện nay. Quốc quân nước Tùy
Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn
**Yên** (Phồn thể: 燕國; Giản thể: 燕国) là một quốc gia chư hầu ở phía bắc của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại từ thời kỳ đầu của Tây Chu qua Xuân
**Thể thao dưới mặt nước** hay **thể thao dưới nước** là nhóm các môn thể thao cạnh tranh sử dụng một hay kết hợp các kỹ thuật lặn sau - nín thở, lặn ống thở
thumb|Phòng điều khiển và sơ đồ của nhà máy lọc nước ở Lac de Bret, [[Thụy Sĩ]] **Lọc sạch nước** là quá trình loại bỏ các chất không mong muốn, chất gây ô nhiễm sinh
**Triệu** (Phồn thể: 趙國, Giản thể: 赵国) là một quốc gia chư hầu có chủ quyền trong thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Triệu là nước có vai trò đáng kể trong giai
**Mã Sở** (馬楚), tên chính thức là **Sở** (楚), là một vương quốc ở phía nam Trung Quốc trong thời Ngũ đại Thập quốc (907-960). Tên nước này được gọi dựa theo họ Mã của
**Liệu** () là nước chư hầu vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Thời Xuân Thu, có hai nước chư hầu cùng tên là Liệu. Một nước được ghi trong Tả truyện-Hoàn công
_Chân dung tự họa_, [[Paul Cézanne, 22 x 26 cm, màu nước, 1895]] **Màu nước** (tiếng Anh: _watercolour_, tiếng Pháp: _aquarelle_) là một chất liệu dùng trong hội họa, đồng thời **vẽ màu nước** là
**Suy giảm dân số** ở người là sự giảm số dân do các nguyên nhân như xu hướng nhân khẩu học dài hạn, suy giảm mức sinh thay thế, suy giảm đô thị, do di
nhỏ|phải|Hai chai nước thánh thiêng chiết từ [[sông Jordan được trưng bày vào năm 1930]] **Nước thánh** (_Holy water_) hay còn gọi là **nước làm phép** là nước đã được một giáo sĩ hoặc một
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
Chào mừng bạn đến với Lazada của Nhàn Perfumes & Cosmetics. Công ty chúng tôi chuyên kinh doanh hơn 1000 loại nước hoa nhập khẩu trực tiếp từ Pháp với hơn 300 thương hiệu nổi
Chào mừng bạn đến với LAZADA của Nhàn Perfumes & Cosmetics. Công ty chúng tôi chuyên kinh doanh hơn 1000 loại nước hoa nhập khẩu trực tiếp từ Pháp với hơn 300 thương hiệu nổi
Chào mừng bạn đến với Lazada của Nhàn Perfumes & Cosmetics. Công ty chúng tôi chuyên kinh doanh hơn 1000 loại nước hoa nhập khẩu trực tiếp từ Pháp với hơn 300 thương hiệu nổi
* Sữa Tắm Trứng Cá Tầm Dưỡng Ẩm Hương Nước Hoa Weilaiya Moist And Smooth Bath Foam Dung Tích 312ml (Tặng kèm lọ mini 60ml)* Sữa Tắm Trứng Cá Tầm Weilaiya Trị Mụn Trứng Cá,
Chào mừng bạn đến với Shopee của Nhàn Perfumes & Cosmetics. Công ty chúng tôi chuyên kinh doanh hơn 1000 loại nước hoa nhập khẩu trực tiếp từ Pháp với hơn 300 thương hiệu nổi
**Trịnh** (Phồn thể: 鄭國; giản thể: 郑国) là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ quốc gia này nằm trên tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện
**Năm nước xưng vương** (chữ Hán: 五国相王, Hán Việt: _Ngũ quốc tương vương_), là một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Các
⭐ Tổng phân tích 11 thông số nước tiểu. ⭐ Xét nghiệm nước tiểu thực hiện tại nhà, đơn giản, nhanh chóng, so sánh màu dễ dàng. ⭐ Phát hiện được các vấn đề về
**Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ** (, viết tắt **OPEC**) là tổ chức đảm bảo thu nhập ổn định cho các quốc gia thành viên và đảm bảo nguồn cung dầu mỏ cho
☘ Nước hoa PLYMPEA 80ml ☘- Là con gái không thể thiếu em này trong nhà được, cùng shop tìm lý do nhé :☘Thông Tin: • Nồng độ: EDP• Độ lưu hương: Rất lâu -
☘ Nước Hoa Nữ Gucci Bamboo ☘- Nước Hoa Gucci Bamboo For Women EDP 75ml là chai nước hoa nữ cao cấp đến từ thương hiệu Gucci nổi tiếng nước Ý. Gucci Bamboo mang mùi
Thông tin sản phẩm Nước hoa Nữ Chanel Coco Mademoiselle Intense EDP Fullbox chính hãng1. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN:Nhóm nước hoa: Hương gỗ phương đôngĐộ lưu hương: Lâu - 7 giờ đến 12 giờThành phần
**Dự trữ ngoại hối nhà nước**, thường gọi tắt là **_dự trữ ngoại hối_** hoặc **_dự trữ ngoại tệ_** là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách về tiền
**Tào quốc** (phồn thể: 曹國; giản thể: 曹国) là một nước chư hầu nhà Chu tồn tại vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ nước Tào hiện ở khoảng vùng Định
**Thẩm** () là một nước chư hầu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ nước Thẩm nằm ở lưu vực Giang Hán thuộc địa bàn tỉnh Hà Nam ngày nay. Thời Xuân
**Nước siêu nặng** là một dạng của nước trong đó các nguyên tử hiđrô thông thường bị thay thế bằng đồng vị triti của nó. Trong trạng thái tinh khiết, nó có thể được gọi
Thời **Lê Sơ**, nước Đại Việt chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cùng tín ngưỡng dân gian, trong đó Nho giáo là đậm nét nhất, trở thành tư tưởng chủ
nhỏ|Nước dừa chứa trong quả **Nước dừa** là chất lỏng, trong, chứa trong quả dừa. Khi quả dừa già đi, nước dừa được thay thế bởi cùi dừa và không khí. Quả dừa non chứa
nhỏ|Một ly nước Cola đá lạnh **Nước giải khát có ga** (còn gọi là **nước ngọt có ga** hay **nước ngọt**) là một loại thức uống thường chứa nước cácbon dioxide bão hòa, chất làm
**Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào** () gọi tắt là **Phó Chủ tịch nước Lào** () là chức vụ lãnh đạo cấp cao của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
1. Công dụng Tỷ Tiên Phương là thực phẩm bảo vệ sức khỏe giúp thông khiếu, hỗ trợ điều trị cho các trường hợp bị nghẹt mũi, sổ mũi. Hỗ trợ làm giảm tình trạng