Tấn Lệ công (chữ Hán: 晉厲公, cai trị: 580 TCN – 573 TCN), tên thật là Cơ Thọ Mạn (姬寿曼) hoặc Cơ Châu Bồ (姬州蒲), là vị vua thứ 29 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Lên ngôi
Tấn Lệ công là con của Tấn Cảnh công – vua thứ 28 nước Tấn.
Mùa hè năm 581 TCN, Tấn Cảnh công ốm nặng. Khi chưa qua đời, Cảnh công đã quyết định lập thế tử Thọ Mạn lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công. Lệ công trở thành vua nước Tấn ngay khi vua cha còn sống. Hơn 1 tháng sau, Tấn Cảnh công qua đời.
Chiến tranh với Tần và Sở
Cuối thời Tấn Cảnh công đã bắt giữ Trịnh Thành công vì theo nước Sở, rồi sai Loan Thư tập hợp chư hầu đánh Trịnh. Nước Trịnh bèn lập con của Trịnh Thành công là Cơ Khôn Ngoan làm vua mới. Tướng Loan Thư nước Tấn thấy Trịnh đã chính thức lập vua mới liền bàn với chư hầu nên trả lại vua Trịnh. Gặp lúc đó Tấn Cảnh công ốm nặng sắp mất, Lệ công mới lập cũng muốn hòa. Công tử Hãn nước Trịnh mang đồ quý là chuông Tương Chung đi hối lộ cho nước Tấn, còn công tử Nhiên đi ngoại giao, thề với nước Tấn ở đất Vu Trạch, còn công tử Tứ đi làm con tin. Sau đó Tấn Lệ công thả Trịnh Thành công về nước.
Năm 580 TCN, Tấn Lệ công mới lên ngôi, muốn yên ổn bờ cõi, bèn hội với Tần Hoàn công cùng ăn thề giữ hòa bình. Hai bên ăn thề bên sông Hoàng Hà. Nhưng khi Tấn Lệ công vừa trở về thì Tần Hoàn công trở mặt, cùng nước Địch bàn mưu đánh nước Tấn.
Năm 578 TCN, Tấn Lệ công sai Lã Tương đi sứ trách nước Tần rồi họp chư hầu mang quân đánh Tần, gồm Tề, Lỗ, Vệ, Tào, Trịnh, Tống, Chu, Đằng. Liên quân do Tấn đứng đầu đánh bại quân Tần ở đất Mã Toại, bắt được tướng Tần là Thành Sai và Bất Canh Nhữ Phủ.
Năm 576 TCN, Tấn Lệ công hội chư hầu tại đất Thích rồi mang quân đánh nước Tào, bắt Tào Thành công mang tới kinh thành Lạc Ấp của nhà Chu giam giữ. Tả Truyện cho rằng đây hành động bá quyền của Tấn Lệ công vì Tào Thành công không mắc lỗi gì với dân chúng. Có ý kiến khác cho rằng vua Tấn lấy cớ Tào Thành công giết thế tử (con Tào Tuyên công) giành ngôi nên mới bắt.
Năm 575 TCN, người nước Tào đến xin với Tấn Lệ công cho Tào Thành công được về nước. Tấn Lệ công chấp thuận cho vua Tào trở về.
Cùng năm, nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở. Tấn Lệ công theo lời Loan Chi, đích thân mang quân đi đánh Trịnh. Tháng 5 năm đó, quân Tấn qua sông Hoàng Hà, gặp Sở Cung vương mang quân cứu Trịnh. Phạm Văn Tử bàn nên rút quân nhưng Khước Chí khuyên nên quyết đánh để giữ uy tín với chư hầu. Lệ công quyết định giao tranh với quân Sở, cho Khước Kỳ làm tướng thượng quân, Tuân Yển làm phó; Hàn Quyết làm tướng hạ quân, Khước Chí làm phó. Ngoài ra Tấn Lệ công còn sai Khước Sưu đi sứ nước Vệ và nước Tề xin quân cùng đánh Sở.
Tấn Lệ công điều quân đến đánh Trịnh, trong khi đó Sở Cung vương cũng mang quân Sở bắc tiến để bảo vệ đồng minh mới.
Phía Sở có quân Trịnh trợ phối hợp. Hai bên giao chiến ở đất Yển Lăng thuộc nước Trịnh. Hai tướng nước Sở là Tử Trọng và Tử Phản bất hòa.
Hai bên giáp mặt nhau tại Yên Lăng, quân Tấn đã đánh bại Sở bằng cách tấn công vào các cánh quân yếu hơn, vốn là các binh sĩ Trịnh và Đông Di được huấn luyện kém. Trong trận chiến, Cung vương đã bị tướng Tấn một mũi tên bắn vào mắt. Bất chấp vết thương, vua Sở vẫn triệu tướng chỉ huy Tử Phản (子反) đến bản thảo về kế hoạch tác chiến cho ngày hôm sau, nhưng bắt gặp Tử Phản say rượu. Cung vương quyết định rút lui và Tử Phản phải tự sát.
Thắng được Sở Cung vương, Tấn Lệ công lấy lại uy thế với chư hầu.
Bị giết trong tranh chấp quyền lực
Năm 576 TCN, đại phu Bá Tôn thường can ngăn thẳng thắn, thành thù oán với họ Khước. Khước Khắc bèn sai người giết Bá Tôn.
Tấn Lệ công có nhiều vợ. Sau khi thắng quân Sở trở về nước năm 574 TCN, Lệ công muốn bỏ các đại phu mà cho các họ ngoại thích là anh em các bà vợ vào làm quan. Một người anh vợ của Lệ công là Tư Đồng có hiềm khích với quan khanh Khước Chí (郤至); đại phu Loan Thư cũng giận Khước Chí không cùng ý kiến với mình khi giao tranh với quân Sở, nên xảy ra thù oán trong triều đình.
Cùng lúc đó nước Sở hận nước Tấn vì trận Yển Lăng, Sở Cung vương cũng cho người đến gièm pha với Lệ công rằng:
:Sở dĩ có trận Yển Lăng vì Khước Chí gọi quân Sở đến vì ý đồ làm loạn nước Tấn để đưa công tử Chu về làm vua. Vì các chư hầu không tham dự đủ để giúp Sở nên việc không thành thôi
Tấn Lệ công hỏi ý kiến Loan Thư. Loan Thư sẵn ghét Khước Chí nên đề nghị cho điều tra. Tấn Lệ công bèn sai Khước Chí đi sứ nhà Chu thăm công tử Chu. Trong khi đó chính Loan Thư lại nói với công tử Chu nên gặp gỡ Khước Chí. Khước Chí không biết là mưu sắp đặt nên gặp gỡ công tử Chu.
Tấn Lệ công được tin, cho rằng Khước Chí có ý phản thật, bèn nuôi ý định giết Khước Chí.
Năm 573 TCN, Tấn Lệ công cùng các đại phu đi săn. Khước Chí bắn được con lợn dâng lên. Viên hoạn quan tranh con lợn, Khước Chí bèn bắn chết vien hoạn quan. Tấn Lệ công nổi giận muốn giết ba đại phu họ Khước nhưng chưa thể thực hiện được.
Khước Kỳ khuyên Khước Chí ra tay trước nhưng Khước Chí không muốn mang tiếng phản vua và gây ra tranh chiến tàn hại dân, chấp nhận cái chết.
Tháng 12 năm đó, Tấn Lệ công sai Tư Đồng mang 800 quân đánh úp ba nhà họ Khước, bắt giết hết cả họ. Nhân đó Tư Đồng muốn trừ khử cả Loan Thư (欒書) và Tuân Yển (hay Trung Hành Yển 中行偃), bèn bắt hai người đến triều đình, khuyên Tấn Lệ công giết luôn. Tấn Lệ công thấy giết người quá nhiều không nỡ ra tay. Lệ công không nghe lời khuyên của Tư Đồng, tạ lỗi với Loan Thư và Tuân Yển và thả hai người về. Tấn Lệ công phong Tư Đồng làm quan khanh.
Loan Thư và Tuân Yển sợ sẽ bị giết, bèn bàn nhau giết Tấn Lệ công. Tháng chạp nhuận năm 573 TCN, Loan Thư và Tuân Yển nhân lúc Tấn Lệ công ra ngoài chơi bèn mang quân đánh úp, bắt sống Tấn Lệ công giam lại.
Sau 6 ngày, Loan Thư sai người đến giết chết Lệ công và dùng một cỗ xe chôn cất ông. Tấn Lệ công ở ngôi tất cả tám năm.
Công tử Chu là chắt của Tấn Tương công được đón về lập làm vua, tức là Tấn Điệu công.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Lệ công** (chữ Hán: 晉厲公, cai trị: 580 TCN – 573 TCN), tên thật là **Cơ Thọ Mạn** (姬寿曼) hoặc **Cơ Châu Bồ** (姬州蒲), là vị vua thứ 29 của nước Tấn - chư
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Tần Lệ Cung công** (chữ Hán: 秦厲共公, trị vì 476 TCN-443 TCN), còn gọi là **Tần Lạt Cung công** (秦剌龚公), **Tần Lợi Cung công** (秦利龚公), hay **Tần Lệ công** (秦厲公), tên thật là **Doanh Thích**
**Tấn Cảnh công** (chữ Hán: 晋景公, cai trị: 599 TCN – 581 TCN), tên thật là **Cơ Cứ** (姬据), là vị vua thứ 28 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Hoàn công** (chữ Hán: 秦桓公, trị vì 603 TCN-577 TCN)), tên thật là **Doanh Vinh** (嬴荣), là vị quân chủ thứ 17 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Lê Công Vinh** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Anh được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng
**Tấn Hiến công** (chữ Hán: 晋献公, cai trị: 676 TCN – 651 TCN), tên thật là **Cơ Quỹ Chư** (姬詭諸), là vị vua thứ 19 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Lê Công Định** (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1968) là một luật sư, từng là thành viên của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, thành viên Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ,
**Lệ Công** (chữ Hán: 厲公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Chu Lỗ Lệ công * Tây Chu Tống Lệ công * Tây Chu Tề Lệ công
**Tấn Tương công** (chữ Hán: 晋襄公, cai trị: 627 TCN – 621 TCN), tên thật là **Cơ Hoan** (姬欢), là vị vua thứ 25 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Linh công** (chữ Hán: 晉靈公, cai trị: 620 TCN – 607 TCN), tên thật là **Cơ Di Cao** (姬夷皋), là vị quân chủ thứ 26 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong
**Tần Tháo công** (chữ Hán: 秦趮公, trị vì 442 TCN-429 TCN), hay **Tần Táo công** (秦躁公), là vị quân chủ thứ 23 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Lê Công Hành** (chữ Hán: 黎公衡; 24 tháng 2 năm 1606-7 tháng 7 năm 1661) là một quan lại thời Hậu Lê (Lê Trung Hưng). Ông được tôn xưng là ông tổ nghề thêu cổ
Lê Công Phước (1901-1950) là một thương nhân và tay chơi nổi tiếng ở miền Nam những năm của thập niên 1920, 1930. Nổi tiếng với biệt danh **Bạch công tử**, cùng với Hắc công
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Tần Cảnh công** (chữ Hán: 秦景公, trị vì 576 TCN-537 TCN), còn gọi là **Tần Hi công** (秦僖公), tên thật là **Doanh Hậu** (嬴後), là vị quân chủ thứ 18 của nước Tần - chư
**Tần Linh công** (chữ Hán: 秦灵公, trị vì: 424 TCN – 415 TCN), tên thật là **Doanh Túc** (嬴肅), là vị vua thứ 25 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Hoài công** (chữ Hán: 秦懐公, trị vì: 429 TCN-425 TCN), là vị vua thứ 24 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tần Hoài công là con thứ
**Tần Điệu công** (chữ Hán: 秦悼公, trị vì 491 TCN-477 TCN), là vị vua thứ 21 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tần Điệu công là con của
Trải qua nhiều năm học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đã giúp tôi tự tin hơn trong việc khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu của riêng mình. Nền móng đầu tiên cho dự định này
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Lê Công Hoàng** (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1991) là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh được biết đến qua vai diễn Vũ trong bộ phim điện ảnh _Cha và con và..._,
**Trịnh Lệ công** (chữ Hán: 鄭厲公, ?–673 TCN, trị vì: 700 TCN–697 TCN và 679 TCN–673 TCN), tên thật là **Cơ Đột** (姬突), là vị vua thứ năm của nước Trịnh – chư hầu nhà
Vào ngày 17 tháng 10 năm 1996, Lê Công Tuấn Anh, nam diễn viên nổi tiếng của điện ảnh Việt Nam thập niên 1990, đã qua đời sau khi được xác định uống thuốc quá
**Lê Công Thanh** (1900-1975) là một nhà giáo và là nhà cách mạng Việt Nam thời kỳ trước năm 1945. Ông là Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của Hà Nam năm 1930-1932. ## Thân
nhỏ|Nhà giáo Ưu tú Lê Công Cơ và [[Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, ngày 09 tháng 01 năm 2013 |250x250px]]**Lê Công Cơ**, là một
phải|[[Nguyễn Ngọc Loan (tướng cảnh sát miền Nam) bắn chết người bị bắt ngay trên đường phố trong Sự kiện Tết Mậu Thân]] **Lê Công Nà** (?-1968) là chính trị viên quận đội kiêm phó
Một sản phẩm Bí truyền làm đẹp Cung Phi, được Bác sĩ Lê Công Danh - Bệnh viện Y học Cổ truyền Thừa Thiên Huế nghiên cứu và sản xuất.Phân phối: Công ty Cổ phần
Một sản phẩm Bí truyền làm đẹp Cung Phi, được Bác sĩ Lê Công Danh - Bệnh viện Y học Cổ truyền Thừa Thiên Huế nghiên cứu và sản xuất.Phân phối: Công ty Cổ phần
**Tề Lệ công** (chữ Hán: 齊厲公; trị vì: 824 TCN – 816 TCN), tên thật là **Khương Vô Kỵ** (姜無忌), là vị vua thứ chín của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
thumb|upright=1.1|Ảnh chụp một phòng tra tấn cũ ở [[Lữ Thuận Khẩu, Trung Quốc]] **Tra tấn** là hành vi có chủ ý gây chấn thương tâm lý hoặc thể xác nghiêm trọng cho một cá nhân
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Vũ Lệ Quyên** (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lệ Quyên**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội trong một gia
**_Án lệ 09/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 9 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là **đám cưới**, **lễ cưới** hoặc gọn hơn là **cưới**, gọi theo tiếng Hán-Việt là **giá thú**. Đối
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I** được bầu ra tại Đại hội lần thứ I họp tại Ma Cao tháng 3 năm 1935. Trong suốt khóa (1935-1951), một số
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Lỗ Thành công** (chữ Hán: 魯成公, trị vì 590 TCN-573 TCN), tên thật là **Cơ Hắc Quăng** (姬黑肱), là vị quốc quân thứ 22 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử