Tấn Huệ công (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là Cơ Di Ngô (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Tấn Huệ công là con thứ của Tấn Hiến công – vua thứ 19 nước Tấn. Mẹ ông là Hồ Cơ, người nước Địch. Chị gái của Hồ Cơ đã sinh ra Công tử Cơ Trùng Nhĩ (姬重耳), tức Tấn Văn công sau này.
Trốn tránh tai hoạ
Khi Tấn Hiến công lên ngôi (677 TCN), Di Ngô đã lớn. Trong số con trai của Hiến công, Di Ngô cùng Trùng Nhĩ và Thái tử Thân Sinh là 3 người tài giỏi và đức hạnh nhất.
Năm 672 TCN, Tấn Hiến công sủng ái Ly Cơ và em gái Ly Cơ. Năm 665 TCN, Ly Cơ sinh được con trai là Cơ Hề Tề (姬奚齊). Hiến công muốn phế truất Thân Sinh, lập Hề Tề làm Thái tử. Vì các con Trùng Nhĩ, Di Ngô và Thân Sinh đã lớn mà Hề Tề còn nhỏ nên chưa tiện thay ngôi, Hiến công bèn tính kế đưa con lớn đi trấn thủ ở ngoài, sai Trùng Nhĩ đi trấn thủ thành Bồ gần biến giới phía bắc, sai Thân Sinh trấn thủ đất Khúc Ốc và sai Di Ngô trấn thủ đất Khuất.
Năm 655 TCN, Hiến công nghe lời gièm pha của Ly Cơ, sai người bắt Thân Sinh. Thân Sinh tự vận. Hiến công bèn lập Hề Tề làm Thái tử. Trùng Nhĩ và Di Ngô đang đến Giáng đô thăm cha, cũng bị Ly Cơ gièm pha, đành bỏ chạy về đất trấn thủ là ấp Bồ và ấp Khuất lo cố thủ.
Tấn Hiến công giận hai con lớn bỏ đi vô phép bèn điều quân đánh đất Bồ và đất Khuất. Ban đầu Di Ngô cầm cự được. Nhưng sang năm 654 TCN, đại phu Giả Hoa cầm quân đánh đất Khuất. Không giữ nổi thành, công tử Di Ngô định chạy sang nước Địch, nhưng Ký Nhuế khuyên ông không nên sang, vì Trùng Nhĩ đã chạy sang đó nên quân Tấn sẽ đến đánh lần nữa. Khước Nhuế khuyên ông chạy sang nước Lương ở gần nước Tần, để có thể nhờ cậy nước Tần về nước khi vua cha qua đời. Di Ngô nghe theo, bèn chạy sang nước Lương.
Trong thời gian ở nước Lương, ông lấy vợ, sinh một con trai là Cơ Ngữ và một con gái.
Về nước làm vua
Năm 651 TCN, Tấn Hiến công mất, ủy thác Hề Tề cho Tuân Tức. Đại phu Lý Khắc chống lại, mang quân giết Hề Tề. Tuân Tức lập Trác Tử (con do em gái Ly Cơ sinh ra). Lý Khắc đánh giết cả Trác Tử và Tuân Tức.
Lý Khắc và đại phu Bì Trịnh bàn nhau đi rước công tử Trùng Nhĩ đang ở đất Địch về nối ngôi. Tuy nhiên khi sứ giả đến nơi, Trùng Nhĩ lại thác cớ từ chối. Lý Khắc nghe tin bèn sai sứ sang nước Lương rước Di Ngô về làm vua. Di Ngô mừng rỡ, hứa hẹn sẽ phong đất Phần Dương cho Lý Khắc.
Thủ hạ của Di Ngô là Lã Sảnh và Ký Nhuế tỏ ra nghi hoặc việc tôn lập Di Ngô, vì trong nước Tấn vẫn còn những người con khác của Hiến công. Do đó Lã Sảnh và Ký Nhuế kiến nghị ông nên mượn uy thế nước Tần mạnh đưa về nước khiến trong nước phải khuất phục. Di Ngô nghe theo, sai Ký Nhuế mang của cải đi biếu Tần Mục công, nhờ vua Tần đưa mình về nước và giao hẹn sẽ cắt đất Hà Tây cho nước Tần.
Tần Mục công lấy chị gái Di Ngô, nhân đó cũng nhận lời giúp ông. Cùng lúc, bá chủ chư hầu là Tề Hoàn công cũng sai đại phu Thấp Bằng mang quân đến hội với quân Tần cùng rước Di Ngô từ nước Lương về nước Tấn. Di Ngô về Giáng đô lên ngôi, tức là Tấn Huệ công.
Bội ước mất lòng người
Lên ngôi vua, Tấn Huệ công lập người con trai sinh tại nước Lương là Cơ Ngữ làm Thái tử. Ông không có ý định cắt đất cho nước Tần như giao hẹn nữa, bèn sai Bì Trịnh đi sứ nước Tần, nói thác cớ đất Hà Tây là do vua cha mở mang, không dám tự cắt. Đồng thời ông cũng không phong đất Phần Dương cho Lý Khắc.
Biết Lý Khắc trước đây từng có ý định lập công tử Trùng Nhĩ, Tấn Huệ công lại truất binh quyền của Lý Khắc.
Tháng 4 năm 650 TCN, Tấn Huệ công sợ Lý Khắc sẽ liên kết với Trùng Nhĩ chống lại mình, bèn sai người đến lệnh cho Lý Khắc phải tự sát, với lý do ông đã từng giết hai vua Tấn là Hề Tề và Trác Tử. Lý Khắc biết rõ Tấn Huệ công muốn mượn cớ hại mình nhưng không chống lại được, phải dùng kiếm tự sát.
Bì Trịnh là người cùng cánh với Lý Khắc, vì đang đi sứ nước Tần chưa về nên thoát nạn. Nghe tin Lý Khắc bị giết, Bì Trịnh quay lại nói với Tần Mục công, đề nghị cho mình về Tấn để chia rẽ vua Tấn với các thủ hạ tin cẩn là Ký Nhuế, Khước Xứng và Lã Sảnh để lật đổ Huệ công mà lập Trùng Nhĩ. Tần Mục công đồng tình, sai người đi cùng Bì Trịnh về Tấn, dùng vàng bạc hối lộ ba người. Ba người thấy quà biếu quá hậu và lời lẽ quá khẩn thiết, biết ý định của Bì Trịnh muốn chia rẽ nhằm lật đổ Huệ công, bèn cùng nhau giết chết Bì Trịnh và 7 đại phu cùng cánh với Lý Khắc.
Vì Tấn Huệ công bội ước với nước Tần và giết các đại phu nên người trong nước thất vọng về vua mới.
Chiến tranh với nước Tần
Năm 647 TCN, nước Tấn mất mùa, xin mua thóc của nước Tần. Nhiều người khuyên Tần Mục công không nên giúp nhưng vua Tần bằng lòng giúp vì chỉ ghét Huệ công chứ không ghét dân Tấn, do đó sai người chuyển thóc từ đất Ung đến Giáng đô bán cho nước Tấn.
Sang năm 646 TCN, đến lượt nước Tần bị mất mùa, xin mua thóc của nước Tấn. Tấn Huệ công không nghe lời khuyên của Khánh Trịnh nên trả ơn nước Tần mà nghe theo lời của Quắc Xạ, không những không bán thóc mà còn khởi binh đánh Tần để nhân Tần bị đói mà diệt Tần.
Tần Mục công mang quân ra đón đánh. Hai bên đối trận ở đất Hàn Nguyên vào tháng 9 năm 646 TCN. Xe của Tấn Huệ công bị sa lầy. Quân Tấn bị quân Tần đánh bại. Tấn Huệ công bị Tần Mục công bắt sống.
Tần Mục công muốn giết Tấn Huệ công, nhưng chị Huệ công là vợ Mục công đứng ra xin tha mạng cho em. Tần Mục công bèn thả Tấn Huệ công, bắt phải ăn thề ở Vương Thành và cho về. Tấn Huệ công xấu hổ với người trong nước, định sai người về lập con là Thái tử Ngữ làm vua Tấn. Do Lã Sảnh trấn an, ông mới trở về nước.
Cuối đời
Tháng 8 năm 645 TCN, Tấn Huệ công cho Thái tử Ngữ sang làm con tin nước Tần, được Tần Mục công gả con gái cho.
Năm 644 TCN, Tấn Huệ công biết mình mất uy tín, lo Trùng Nhĩ sẽ về nước tranh ngôi, nên sai Bột Đề đi sang đất Địch ám sát Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ được tin báo bèn bỏ chạy sang nước Tề nương nhờ Tề Hoàn công.
Năm 638 TCN, Tấn Huệ công ốm nặng. Thái tử Ngữ lo lắng, bèn bàn với vợ và một mình bỏ trốn về nước Tấn.
Tháng 9 năm 637 TCN, Tấn Huệ công qua đời. Ông ở ngôi được 14 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Ông được chôn cất vào tháng 11 cùng năm. Thái tử Ngữ lên nối ngôi, tức là Tấn Hoài công.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tần Huệ công** (chữ Hán: 秦惠公, trị vì 399 TCN-387 TCN), là vị vua thứ 27 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tần Huệ công là con của
**Tần Huệ công** (chữ Hán: 秦惠公, trị vì 500 TCN-492 TCN), là vị vua thứ 20 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tần Huệ công là cháu nội
**Tần Huệ Công** (_chữ Hán_:秦惠公) có thể là: ## Danh sách *Tần Huệ Công, vị vua thứ 20 của nước Tần thời Tây Chu và Xuân Thu Chiến Quốc *Tần Huệ Công, vị vua thứ
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Tấn Hoài công** (chữ Hán: 晋怀公, cai trị: 637 TCN – 636 TCN), tên thật là **Cơ Ngữ** (姬圉), là vị vua thứ 23 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Tần Xuất công** (chữ Hán: 秦出公, trị vì 387 TCN-385 TCN), còn gọi là **Tần Thiếu chủ** (秦少主) hay **Tần Tiểu chủ** (秦小主), là vị quân chủ thứ 28 của nước Tần giữa thời Chiến
**Tần Điệu công** (chữ Hán: 秦悼公, trị vì 491 TCN-477 TCN), là vị vua thứ 21 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tần Điệu công là con của
**Tấn Hiến công** (chữ Hán: 晋献公, cai trị: 676 TCN – 651 TCN), tên thật là **Cơ Quỹ Chư** (姬詭諸), là vị vua thứ 19 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦献公, trị vì 384 TCN-362 TCN), còn gọi là **Tần Nguyên Hiến công** (秦元献公) hay **Tần Nguyên vương** (秦元王), là vị quân chủ thứ 29 của nước Tần - chư
**Tần Ai công** (chữ Hán: 秦哀公, trị vì 536 TCN-501 TCN), còn gọi là **Tần Tất công** (_秦毕公_), **Tần Bi công** (_秦㻫公_), **Tần Bách công** (_秦栢公_), là vị quân chủ thứ 19 của nước Tần
**Tần Giản công** (chữ Hán: 秦简公, sinh 427 TCN, trị vì 415 TCN-400 TCN), tên thật là **Doanh Điệu Tử** (嬴悼子), là vị vua thứ 26 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Huệ Công** (chữ Hán: 惠公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Chu Tống Huệ công * Tây Chu Lại Huệ công * Đông Chu Ứng Huệ công
**Tần Huệ Văn hậu** (chữ Hán: 秦惠文后, ? - 305 TCN) là một Vương hậu nước Tần thời Chiến Quốc, chính thất của Tần Huệ Văn vương, mẹ đẻ của Tần Vũ vương. ## Tiểu
**Tần Hiếu công** (chữ Hán: 秦孝公, sinh 381 TCN, trị vì 361 TCN-338 TCN) hay **Tần Bình vương** (秦平王), tên thật là **Doanh Cừ Lương** (嬴渠梁), là vị vua thứ 30 của nước Tần -
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Yên Huệ công** (chữ Hán: 燕惠公; trị vì: 544 TCN-536 TCN), tên thật là **Cơ Khoản**, là vị vua thứ 26 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Trần Huệ công** (chữ Hán: 陳惠公; trị vì: 529 TCN-506 TCN), tên thật là **Quy Ngô** (媯吳), là vị vua thứ 24 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Vệ Huệ công** (chữ Hán: 衞惠公; trị vì: 699 TCN-696 TCN và 688 TCN-669 TCN), tên thật là **Vệ Sóc** (衞朔), là vị vua thứ 16 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong
**Tần Huệ Vương** (_chữ Hán_:秦惠王) có thể là: ## Danh sách *Tần Huệ Vương Doanh Tứ, vị quân chủ thứ 31 của nước Tần thời Tây Chu và Xuân Thu Chiến Quốc, gọi tắt theo
**Cung Huệ Công** (_chữ Hán_:恭惠公) là thụy hiệu của một số vị công tước trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Bắc Ngụy Đô Xương Cung Huệ
**Đông Chu Huệ công** (chữ Hán: 東周惠公) là vị quân chủ đầu tiên của nước Đông Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con thứ của Tây Chu Uy công Cơ
**Tây Chu Huệ công** (chữ Hán: 西周惠公), tên thật là **Cơ Triều** (姬朝), là vị quân chủ thứ ba của nước Tây Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Năm 367 TCN Tây
**Tấn Trác Tử** (chữ Hán: 晋卓子; 652 TCN - 651 TCN), tên thật là **Cơ Trác Tử** (姬卓子), là vị vua thứ 21 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Tần Tuyên Thái hậu** (chữ Hán: 秦宣太后, 348 TCN - 245 TCN), cũng gọi **Mị Thái hậu** (羋太后) hay **Tuyên Thái hậu** (宣太后), là một Thái hậu nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Tấn Hoài đế** (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay **Tấn Hoài vương** (晉懷王), tên thật là **Tư Mã Xí** (司馬熾), tên tự là **Phong Đạc** (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Công-tôn Diễn** (chữ Hán: 公孫衍, 360 TCN-300 TCN), còn gọi là Tê Thủ (犀首), là chính khách thời Chiến Quốc, thuộc học phái Tung hoành gia, là một trong những người cầm đầu đường lối
**Viện Cơ mật** hay **Cơ mật viện** (chữ Hán: 機密院) là một cơ quan trong triều đình nhà Nguyễn, thành lập năm Giáp Ngọ (1834) dưới thời Minh Mạng. Công trình kiến trúc Viện Cơ
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Thái Công Triều** (蔡公朝, ?-?) là một võ quan triều Nguyễn. Ông theo Lê Văn Khôi trong cuộc nổi dậy ở thành Gia Định (1833-1835). Khi đại cục thất bại, Thái Công Triều bị bắt
**Trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học – Huế** (hay còn gọi là **Trường Quốc Học** hoặc **Quốc Học Huế**) là một ngôi trường nổi tiếng ở thành phố Huế, Việt Nam. Thành lập
**Tần Vũ Vương** (chữ Hán: 秦武王, trị vì 310 TCN-307 TCN), tên thật là **Doanh Đảng** (嬴蕩), là vị quân chủ thứ 32 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Tần Điệu Vũ hậu** (chữ Hán: 秦悼武后) là Vương hậu của nước Tần thời Chiến Quốc, vợ của Tần Vũ vương, vị Vương thứ hai của nước Tần. ## Tiểu sử Điệu Vũ hậu họ
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
thumb|[[Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa|Hòa Thạc Thọ Tang Công chúa - con gái của Đạo Quang Đế.]] là phong hào chính thức của các thứ hoàng nữ nhà Thanh, trong tiếng Mãn, "hòa thạc"
**Thạch Sùng** (chữ Hán: 石崇; 249-300) là quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. ## Biết con không ai bằng cha Thạch
**Hòa Thạc Thục Thận Công chúa** (chữ Hán: 和硕淑慎公主, 1708 - 1784), con gái nuôi của Ung Chính Đế, Công chúa đầu tiên của nhà Thanh kết hôn với quý tộc Mông Cổ nhưng vẫn
**Chiến tranh Tần-Ba-Thục** (316 TCN) là cuộc chiến tranh diễn ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc với sự tham gia của bốn quốc gia là Tần, Ba và Thục và
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Điện Càn Thành** còn có tên là **điện Trung Hòa**, đây là tư cung của vua triều Nguyễn nằm trong Tử Cấm thành (Huế). Công trình này được xây dựng năm Gia Long thứ 10