Tấn Hoài đế (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay Tấn Hoài vương (晉懷王), tên thật là Tư Mã Xí (司馬熾), tên tự là Phong Đạc (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế và thời trẻ
Tư Mã Xí là con trai thứ 25 của Tấn Vũ đế Tư Mã Viêm, vị vua đầu tiên của nhà Tấn, em trai của Tấn Huệ đế, vị vua thứ hai của nhà Tấn. Mẹ ông là Tài nhân Vương Viện Cơ. Ông chào đời năm 284.
Năm Thái Hi nguyên niên (290) thời vua cha, Tư Mã Xí được phong là Dự Chương quận vương. Cùng năm đó Vũ đế qua đời, anh ông là Huệ đế Tư Mã Trung lên nối ngôi. Tấn thư đánh giá Tư Mã Xí là người thích du ngoạn, không thích tham gia chính sự và cũng không có tài năng gì nổi bật. Từ khi loạn bát vương bùng nổ, các chư hầu vương chia bè kết cánh tranh quyền lẫn nhau, song Tư Mã Xí cũng không tham gia.
Tuy nhiên cuối cùng, Tư Mã Xí cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của loạn bát vương. Năm 301, sau khi diệt trừ Tư Mã Luân và phục ngôi, Tấn Huệ đế phong cho Tư Mã Xí làm Xạ Thanh Giáo úy. Đến năm Vĩnh Ninh thứ 3 (304), ông được phong làm Trấn bắc đại tương quân, Đô đốc Nghiệp thành.
Tháng 12 năm 304, Tư Mã Ngung cầm quyền chính trong triều do có mâu thuẫn với Thái đệ Tư Mã Dĩnh, bèn lấy chiếu của Tấn Huệ đế truất ngôi của Dĩnh, phong Tư Mã Xí làm Hoàng Thái đệ.
Sau cùng, năm 306, Đông Hải vương Tư Mã Việt giành được Tấn Huệ đế, đưa về Lạc Dương và trở thành người chiến thắng trong loạn bát vương, trở thành người nắm chính trường. Tháng 12 năm đó, Tư Mã Việt đầu độc Tấn Huệ đế. Dương Hoàng hậu nghe tin hoàng đế băng hà, sợ khi Thái đệ lên ngôi sẽ không được làm Thái hậu, bèn phong cho con Huệ đế, thái tử cũ là Thanh Hà vương Tư Mã Đàm làm Thượng thư các, định lập làm vua. Thị trung Hoa Hỗn biết được, bèn triệu ông vào cung đưa lên ngôi, tức Tấn Hoài đế. Hoài đế đổi niên hiệu là Vĩnh Gia, tôn Dương Hoàng hậu làm Huệ hoàng hậu, và mẹ là Vương thị làm Hoàng Thái hậu, lập vợ là Lương phi làm Hoàng hậu. Năm đó ông được 23 tuổi.
Làm vua
Năm 307, Tấn Hoài đế bãi bỏ hình phạt tru di ba họ. Cùng năm, Lại Bộ lang Châu mục, cậu Thanh Hà vương Tư Mã Đàm (con Huệ đế), là người cùng phe với Tư Mã Việt và em gái là Gia Cát Mai đề nghị Tư Mã Việt phế Tấn Hoài đế, lập Thanh Hà vương làm thiên tử. Tư Mã Việt không nghe, giết hết hai người.
Năm 308, Tấn Hoài đế phong cho Dự Chương vương Tư Mã Thuyên làm Hoàng Thái tử, phong Tư Mã Việt làm Chinh đông tướng quân và Cao Mật vương Tư Mã Giản làm Chinh nam đại tương quân, Đô đốc kinh châu, Nam Dương vương Tư Mã Mô làm Chinh Tây tướng quân, đô đốc bốn châu Tần, Ung, Lương và Ích.
Cùng năm, Quân Hán Triệu của Lưu Uyển đem quân tiến đánh các thành trì của nhà Tấn. Con Uyên là Lưu Thông Nam tiến đánh Thái Nguyên, sai Thạch Lặc đánh đất Triệu, Ngụy, lại lệnh cho Vương Di đánh phá các châu. Vương Di lại liên tiếp khiến các châu Dự, Duyện, Từ, Thanh bị uy hiếp, Thứ sử Thanh Châu Tuân Hi đối phó rất vất vả. Tháng 5 năm đó, Di tấn công Kinh thành Lạc Dương nhưng bị viện binh nhà Tấn đánh bại, phải chạy về nhập vào quân Lưu Uyên. Tháng 7, Lưu Uyên ở phía Bắc xưng đế ở Bình Dương , mở đầu thời kì Ngũ Hồ Thập lục quốc. Lưu Uyên đem quân đánh Hứa Xương. Tư Mã Việt cử Tả Tư mã Vương Bân đem 5000 quân bảo vệ kinh thành Lạc Dương.
Tháng 8 và tháng 10 năm 309, Lưu Uyên hai lần tấn công Lạc Dương nhưng thất bại phải lui quân.
Đầu năm 310, tướng Hán Triệu là Vương Di sai bộ tướng Tào Nghi đánh chiếm Đông Bình và tấn công Lang Nha. Thạch Lặc mang quân hợp với Di đánh 3 châu Từ, Duyện, Dự, chiếm được Yên Thành, giết Thứ sử Duyện Châu nhà Tấn là Viên Phu, sau đó đánh chiếm các quận thuộc Ký Châu. Khi đó phần lớn đất đai phía đông Lạc Dương đã bị mất.
Tư Ma Việt cầm quyền trong triều, giết nhiều người thân tín của Hoài đế. Hai bên xảy ra xung đột. Tháng 10 năm 310, các tướng Hán Triệu là Lưu Diệu, Lưu Xán (con Lưu Thông), Vương Di, Thạch Lặc chia đường cùng nhau tấn công Lạc Dương lần thứ ba. Tấn Hoài đế sai người đến các quận cầu cứu nhưng không có kết quả.
Tháng 10 năm 310, Tư Mã Việt đưa quân về Hứa Xương, để Hoài đế ở Lạc Dương. Tháng 2 năm 311, Thạch Lặc đem quân tấn công Nhữ Nam. Nhữ Nam vương Tư Mã Hựu phải chạy về Kiến Nghiệp. Tháng 3 năm đó, Tấn Hoài đế phong Tuân Hi làm Đại tướng quân, ban chiếu kể tội trạng của Tư Mã Việt, lệnh cho các trấn đem quân thảo phạt. Tuân Hi bắt giết phe cánh của Việt. Cùng lúc đó Tư Mã Việt bị bệnh qua đời ở Hạng Thành. Tương Dương vương Tư Mã Phạm và Tư đồ Vương Diễn dẫn quân đưa thi thể Việt vào Đông Hải an táng, bị tướng của Lưu Thông là Thạch Lặc đuổi theo, truy bắt, giết chết mấy vạn quân. Tấn Hoài đế xuống chiếu biếm Tư Mã Việt làm Huyền vương.
Sau khi truy bắt linh cữu Tư Mã Việt, Thạch Lặc cho quân tấn công vào các trấn Khổ Huyền, Bình Thành.
Tuân Hi nhân lúc quân Hán Triệu đi đánh Tư Mã Việt, sai người mang xe đến Lạc Dương đón Hoài Đế thiên đô. Nhưng các đại thần tiếc gia tài nên lần lữa không đi. Sứ của Tuân Hi phải trở về. Mãi sau, liệu tình hình không thể ở được, Hoài Đế đành tự đi bộ với vài chục quan viên, ra ngoài thành Lạc Dương bị lưu dân chặn đường trấn lột hết đồ mang theo, buộc phải quay trở lại.
Thấy quân nhà Tấn rệu rã, tháng 6 năm 311, Thạch Lặc, Vương Di, Hồ Diên Yến đem quân tấn công Lạc Dương. Ngày 11 tháng 6, quân Hán Triệu phá được cửa Nam, kéo vào thành, giết 3 vạn quân dân nhà Tấn, bắt sống Hoài Đế và Dương Hoàng hậu (vợ Tấn Huệ Đế). Kinh thành Lạc Dương bị cướp bóc và tàn phá. Hoài đế bị đưa về Hán Triệu và bị giáng làm Cối Kê vương.
Khi Lạc Dương thất thủ, cháu Hoài Đế, con Ngô Hiếu vương là Tần Vương Tư Mã Nghiệp chạy về huyện Mật, gặp Thứ sử Dự Châu Diêm Đỉnh mộ được vài ngàn quân ở đó, bèn cùng hợp binh cố thủ. Tháng 9 năm 312, Tư Mã Nghiệp lên làm Thái tử.
Bị giết
Mùa xuân năm 313, triều đình Hán Triệu đãi tiệc, Lưu Thông ép Tấn Hoài đế rót rượu. Các quan bị bắt cùng Hoài đế là Dữu Mân và Vương Tuyển cảm thấy bị sỉ nhục, ứa nước mắt khóc. Lưu Thông giận dữ, giết Dữu Mân và Vương Tuyển cùng một số quan lại khác của nhà Tấn. Sau đó Lưu Thông đầu độc chết Tấn Hoài đế.
Tấn Hoài đế ở ngôi được 7 năm, thọ 30 tuổi. Thái tử Tư Mã Nghiệp được lập làm vua, tức Tấn Mẫn Đế.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Hoài đế** (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay **Tấn Hoài vương** (晉懷王), tên thật là **Tư Mã Xí** (司馬熾), tên tự là **Phong Đạc** (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tấn Mẫn đế** (chữ Hán: 晋愍帝, 300-318), tên thật là **Tư Mã Nghiệp** (司馬鄴), tên tự là **Ngạn Kì** (彥旗) là vị vua thứ năm của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Tấn Hoài công** (chữ Hán: 晋怀公, cai trị: 637 TCN – 636 TCN), tên thật là **Cơ Ngữ** (姬圉), là vị vua thứ 23 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Hoài Đế** (chữ Hán: 懷帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ, cũng như Hiếu Hoài Đế và Xuất Đế, thông thường những vị quân chủ này bị bắt giam ở xa tổ
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào
**Hiếu Hoài Đế** (chữ Hán: 孝懷帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ, cũng như Xuất Đế, thông thường những vị quân chủ này bị bắt giam ở xa tổ quốc. ## Danh
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Tấn Văn công** (chữ Hán: 晉文公, 697 TCN - 628 TCN), tên thật là **Cơ Trùng Nhĩ** (姬重耳), là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
Dưới đây là danh sách các phiên vương thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong trường hợp một chư hầu quốc bị trừ bỏ vì các lý do như mưu phản, phạm tội,
**Phan Nhạc** (chữ Hán: 潘岳, 247 – 300), tên tự là **An Nhân**, đời sau quen gọi là **Phan An** (潘安), người Trung Mưu, Huỳnh Dương. Ông nổi tiếng là một nhà văn thời Tây
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Hoài Thái Hậu** (_chữ Hán_:懷太后) là thụy hiệu của một số vị thái hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tây Tấn Vũ Đế Vũ Hoài
**Tần Linh công** (chữ Hán: 秦灵公, trị vì: 424 TCN – 415 TCN), tên thật là **Doanh Túc** (嬴肅), là vị vua thứ 25 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
Nhấc máy gọi trực tiếp cho chúng tôi để được tư vấn và nhận hàng nhanh nhất☎ Hotline/zalo 0911.102.882 - 0921.888.222 **Website: Ykhoahueloi.com Địa Chỉ Mua Hàng: Hà Nội : Ngõ 38 - Đường Phương
Hotline:0911.102.882Thuyền tán thuốk một trong những dụng cụ bào chế thuốk YHCT được xếp vào hàng kinh điển, không thể thiếu trong quá trình bào chế đông dược. Nó dùng để bào chế các thuốk
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
**Tấn Hiếu Vũ Đế** () (362–396), tên thật là **Tư Mã Diệu** (司馬曜), tên tự **Xương Minh** (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hoài Vương** (chữ Hán: 懷王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ, phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á
#đổi Hoài Nhơn (phường) **Hoài Nhơn** là một thị xã ven biển thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. nhỏ|**Biểu trưng thị xã Hoài Nhơn** ## Địa lý Thị xã Hoài Nhơn nằm ở phía bắc
**Sở Nghĩa Đế** (chữ Hán: 楚義帝; ?-206 TCN), cũng còn gọi là **Sở Hậu Hoài vương** (楚後懷王), tên thật là **Mị Tâm** (芈心) hoặc **Hùng Tâm** (熊心), là vua nước Sở cuối thời Tần trong
**Tư Mã Việt** (chữ Hán: 司馬越, ?-311), tức **Đông Hải Hiếu Hiến vương** (東海孝獻王), tự là **Nguyên Siêu** (元超), là tông thất của nhà Tấn, một trong tám vị chư hầu vương trong loạn bát
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Trịnh Hoài Đức** ( 1765 - 1825), còn có tên là An (安), tự **Chỉ Sơn **, hiệu **Cấn Trai**; là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Ngũ Hồ Thập lục quốc** (), gọi tắt là **Thập lục quốc**, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận