✨Hán Canh Thủy Đế

Hán Canh Thủy Đế

Hán Canh Thủy Đế (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy Lưu Huyền (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi nghĩa Lục Lâm, lật đổ nhà Tân nhưng sau đó đã thất bại trong cuộc chiến tranh với các chư hầu khác cùng tham gia chống nhà Tân.

Lên ngôi

Lưu Huyền có biểu tự là Thánh Công (圣公), quê ở Thái Dương, Nam Dương (nay là tây nam huyện Tảo Dương, tỉnh Hồ Bắc), vốn là tông thất nhà Hán, cháu 6 đời của Hán Cảnh Đế Lưu Khải.

Năm 17, dưới thời Vương Mãng, khởi nghĩa Lục Lâm chống nhà Tân bùng nổ. Sang năm 22, do ở vùng căn cứ có dịch bệnh, quân Lục Lâm phải chia làm 2 cánh rút khỏi Lục Lâm: một cánh theo Vương Khuông, Vương Phượng, Mã Vũ đi về Nam Dương, gọi là quân Tân Thị; cánh kia theo Vương Thường, Thành Đan đi về Nam Quận gọi là quân Hạ Giang.

Tháng 7 năm 22, quân Tân Thị đi đến huyện Tuỳ, Lưu Huyền đến gia nhập quân Lục Lâm.

Với sự gia nhập sau đó của anh em tông thất khác là Lưu Diễn – Lưu Tú, lực lượng Lục Lâm càng mạnh. Sau những trận thắng liên tiếp, danh tiếng quân Lục Lâm lên rất cao, người đến xin theo rất nhiều, nên lực lượng có 10 vạn người. Lưu Huyền được phong làm Canh Thủy tướng quân.

Trong quân Lục Lâm có chủ trương lập một người hoàng tộc nhà Hán lên làm vua để có danh chính đánh Vương Mãng, khôi phục nhà Hán. Ngoài Lưu Huyền và anh em Lưu Diễn, Lưu Tú, trong quân Lục Lâm còn có các tông thất là Lưu Lương, Lưu Tứ, Lưu Gia. Vương Khuông và Vương Phượng chủ trương lập Lưu Huyền là người tài năng kém và không có vây cánh, thế lực để dễ khống chế, trong khi thiểu số theo Lưu Diễn không tán thành, muốn mình được lập. Cuối cùng, số đông của Vương Khuông thắng thế, Lưu Huyền được lập làm vua, với danh nghĩa khôi phục nhà Hán để đánh nhà Tân. Ông lấy niên hiệu Canh Thủy, tức là vua Canh Thủy Đế.

Giết Lưu Diễn

Giữa năm 23, quân Lục Lâm chia hai đường đánh Uyển Thành và Côn Dương, đều thắng lợi lớn. Cánh quân chủ lực của Lưu Diễn và Vương Khuông hạ được Uyển Thành, cánh quân thứ hai của Lưu Tú và Vương Phượng đánh tan 42 vạn quân cứu viện của nhà Tân.

Sau khi hạ Uyển Thành, Canh Thủy Đế Lưu Huyền lấy đây làm kinh đô. Lưu Diễn có công đánh chiếm Uyển Thành nên tỏ ra cậy công, bất phục Lưu Huyền, tự xưng là Trụ thiên đại tướng quân. Sợ Lưu Diễn mưu lật đổ, phe Lưu Huyền được Vương Khuông, Thân Đồ Kiến ủng hộ bàn nhau giết Lưu Diễn để trừ hậu hoạ.

Biết một tông thất khác là Lưu Tắc về phe Lưu Diễn và phản đối việc lập Lưu Huyền, ông triệu về phong Tắc làm Kháng uy tướng quân, nghĩa là Tướng quân chống lệnh vua. Tắc đang cầm quân đánh Lỗ Dương, không chịu nhận chức đó, bị Canh Thủy Đế sai các tướng mang quân đến bắt về giết chết. Lưu Diễn có mặt ở đó thấy vậy kiên quyết phản đối, đòi thu lệnh chém Lưu Tắc. Chu Vĩ và Lý Dật bèn khuyên Lưu Huyền nhân đó xử tội luôn Lưu Diễn đồng mưu phản nghịch. Canh Thủy Đế được cơ hội bèn sai bắt luôn Lưu Diễn mang chém vì tội chống đối.

Đánh đổ nhà Tân

Do Lưu Tú nén lòng không tỏ ra thương xót và để tang Lưu Diễn, lại đến tạ tội với Canh Thủy Đế nên ông không nghi ngờ Lưu Tú. Canh Thủy Đế thấy Lưu Tú có công thắng trận Côn Dương, nhân đó muốn an ủi, phong là Phá lỗ tướng quân, Vũ Tín hầu.

Nhân lúc quân Tân thua tan tác, các thổ hào các vùng nổi dậy cát cứ. Chính quyền nhà Tân lúc đó rất suy yếu, thực tế chỉ còn Trường An và Lạc Dương. Nhân đà thắng lợi, quân Lục Lâm chia làm hai đường tiến đánh nhà Tân. Một cánh do Thân Đồ Kiến và Lý Tùng chỉ huy đánh về phía tây, vào cửa Vũ Quan để tiến vào Trường An; cánh quân kia do Vương Khuông chỉ huy đánh vào Lạc Dương. Đầu tháng 10, quân Lục Lâm tiến vào Trường An giết Vương Mãng, lật đổ nhà Tân.

Lưu Huyền phong cựu hoàng tộc Lưu Tứ làm Đại tư đồ, Lý Tùng làm thừa tướng. Tuy nhiên cũng từ lúc đánh đổ được nhà Tân, không chỉ Canh Thủy Đế mà cả các tướng Vương Khuông, Vương Phượng, Chu Vĩ, Vương Thường, Trương Ngang… sau khi được phong vương một lượt bắt đầu nghĩ đến chuyện hưởng lạc, không lo đánh dẹp các lực lượng cát cứ còn nhiều.

Nghe tin quân Lục Lâm làm chủ Trường An, thủ lĩnh quân khởi nghĩa Xích Mi là Phàn Sùng sai người đến yết kiến và tỏ ý quy phục. Lưu Huyền phong cho các tướng Xích Mi tước hầu. Tuy nhiên một thời gian sau, phe Lục Lâm lại bài xích phe Xích Mi, vì vậy Phàn Sùng và các thủ hạ ly khai Lưu Huyền.

Mặc dù diệt được nhà Tân nhưng phạm vi quản lý của Canh Thủy Đế chỉ bao gồm Quan Trung, Lạc Dương, Giang Hoài và Kinh châu, các nơi khác do các lực lượng nhân danh chống Vương Mãng nổi dậy chiếm giữ. Lưu Huyền bèn cử Lưu Tú đi lên bình định Hà Bắc.

Phong tước bừa bãi

Tháng 2 năm 24, Lý Tùng và Thân Đồ Kiến sai người đón Canh Thủy Đế vào Trường An. Theo thỉnh cầu của Lý Tùng, Canh Thủy Đế phong bừa cho các họ hàng, tông thất các công thần làm chư hầu, vương. Các tướng trụ cột của Lục Lâm và các hoàng thân tham dự khởi nghĩa đều được phong vương, riêng Lưu Tú vì bị nghi nên không được phong. Do việc Lưu Huyền phong quan chức bừa bãi nên ở Trường An truyền khẩu câu: :Táo hạ dưỡng, Trung lang tướng; Lạn dương bị, Kỵ đô uý; Lạn Dương đầu, Quan nội hầu

Nghĩa là: :Lo nấu nướng, Trung lang tướng; Gọt vỏ bí, Kỵ đô uý; Kho thịt trâu, quan Nội hầu

Canh Thủy Đế lệnh cho Lý Thông, Vương Thường, Lý Dật trấn giữ Quan Đông, cho Triệu Manh nắm giữ nội chính. Triệu Manh bèn dâng con gái cho Lưu Huyền. Canh Thủy Đế ham mê tửu sắc, giao hết việc triều đình cho Triệu Manh. Manh được thể chuyên quyền, giết hại những người chống đối. Có người đề nghị chiêu nạp hiền sĩ, trọng dụng nhân tài, nhưng điều đó trái ý Lưu Huyền nên bị Lưu Huyền bắt bỏ ngục. Vì vậy mọi người đều thất vọng.

Các lực lượng chống đối

Sau một thời gian Lưu Tú rời Lạc Dương, Canh Thủy Đế lại phái Tạ Cung cầm quân lên Hà Bắc để hợp sức với Lưu Tú trừ Vương Lãng và bình định vùng này, đồng thời canh chừng cử động của Lưu Tú. Sau khi diệt được chính quyền Vương Lãng, cả Lưu Tú và Tạ Cung đều đóng ở Hàm Đan. Lưu Tú tìm cách lung lạc và giết chết Tạ Cung.

Thấy Lưu Tú ra mặt ly khai, Canh Thủy Đế sai Chu Vĩ và Lý Dật mang 30 vạn quân ra đóng ở Lạc Dương. Lưu Tú mang quân đánh lấy quận Hà Nội, làm chủ toàn bộ Hà Bắc, chuẩn bị tiến đánh Quan Trung. Lưu Tú sai Khấu Tuần giữ Hà Nội là nơi giàu có, không bị chiến tranh tàn phá để làm chỗ cung ứng quân lương, sai Phùng Dị giữ Mạnh Tân, kiềm chế quân Chu Vĩ ở Lạc Dương.

Đầu năm 25, Phương Vọng ở Bình Lăng thấy chính quyền Canh Thủy đã loạn, bèn lập vua cũ nhà Tây Hán là Nhũ Tử Anh (Lưu Anh), lúc đó đã 21 tuổi lên ngôi. Lưu Huyền biết tin bèn sai Lý Tùng mang quân trấn áp, giết chết cả Phương Vọng và Lưu Anh.

Thấy chính quyền Canh Thủy hủ bại, thủ lĩnh quân Xích Mi là Phàn Sùng quyết tâm đánh diệt Canh Thủy. Đầu năm 25, hai cánh quân Xích Mi hội nhau ở Hoằng Nông. Quân tiên phong Lục Lâm ra đánh chặn bị quân Xích Mi đánh bại.

Quân Xích Mi tụ được 30 vạn người. Để có danh chính chống Lưu Huyền, khi đi đến Hoa Âm, Phàn Sùng tìm tông thất nhà Hán là cháu của Thành Dương Cảnh vương Lưu Chương tên là Lưu Bồn Tử mới 15 tuổi, đang đi chăn trâu, lập làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Thế, tức là vua Kiến Thế Đế, với danh nghĩa tái lập nhà Hán.

Trong khi đó, tháng 6 năm 25, Lưu Tú cũng xưng đế ở Hạo Nam, cũng đặt quốc hiệu là Hán lấy niên hiệu là Kiến Vũ. Như vậy cùng lúc có 3 vua Hán là Lưu Huyền, Lưu Bồn Tử và Lưu Tú.

Chết ở Trường An

Mùa thu năm 25, quân Xích Mi tiến đến Cao Lăng và sắp vào tới Trường An. Vì quân chủ lực 30 vạn người của Lục Lâm đã giao cho Chu Vĩ đi trấn giữ Lạc Dương nên lực lượng ở lại không đủ mạnh để chống quân Xích Mi. Trong thành Trường An hoảng loạn. Có người khuyên Lưu Huyền vơ vét của cải ở Trường An về Nam Dương như cũ cố thủ, nếu lại thua nữa thì trở lại làm trộm cướp. Canh Thủy Đế không tán thành đề nghị đó, sai Lý Tùng mang quân ra chặn đánh quân Xích Mi nhưng Tùng nhanh chóng bại trận, bị Phàn Sùng bắt sống.

Các đại thần ở Trường An mưu ép Canh Thủy Đế chạy về phía đông. Mưu sự bại lộ, Lưu Huyền giết chết 3 vương chư hầu là Thân Đồ Kiến, Trần Mục và Thành Đan. Các tướng khác là Vương Khuông, Trương Ngang, Liêu Trạm, Hồ Ân bèn mưu sự lần thứ hai, dẫn quân vào đánh Canh Thủy Đế lần nữa để bắt sống mang về đông. Hai bên kịch chiến trong cung Canh Thủy. Lưu Huyền thua trận bỏ chạy về Tân Phong, ra mặt thù địch với các tướng. Không thể tiếp tục hợp tác với Lưu Huyền, Vương Khuông cùng các tướng bèn ra hàng quân Xích Mi.

Quân Xích Mi đánh chiếm được Trường An. Lưu Huyền đường cùng cũng đành phải xin hàng. Tháng 12 năm 25, ông bị quân Xích Mi treo cổ.

Canh Thủy Đế ở ngôi được 3 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Cái chết của Lưu Huyền đánh dấu sự tan rã của quân Lục Lâm. Cái chết này được xem là ứng với câu sấm: "Hài bất hài, tại Xích Mi" - do ông để mất lòng các tướng khởi nghĩa Xích Mi, gây ra thù địch và cuối cùng bị quân Xích Mi giết chết.

Gia đình

  • Tổ phụ: Lưu Lợi (刘利)
  • Phụ thân: Lưu Tử Trương (刘子张)
  • Mẫu thân: Hà thị
  • Thê thiếp: Hàn phu nhân (韩夫人) Triệu phu nhân (赵夫人), con gái Triệu Manh (赵萌)
  • Con cái: Tương Ấp hầu → Thành Dương hầu Lưu Cầu (成阳侯刘求) Cốc Thục hầu Lưu Hâm (谷熟侯刘歆) ** Thọ Quang hầu Lưu Lý (寿光侯刘鲤)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Lưu Bồn Tử** (chữ Hán: 劉盆子; 10-?), là Hoàng đế nhà Hán thời kỳ chuyển tiếp giữa Tây Hán và Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Theo Hậu Hán thư, Lưu
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Trịnh Hưng** (chữ Hán: 郑兴, thế kỷ 1), tự **Thiếu Cống**, người Khai Phong, Hà Nam, học giả đầu đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bậc đại Nho, được đời sau
**Cảnh Huống** (chữ Hán: 耿況, ? – 36) là quan viên nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Huống tự Hiệp Du, là người huyện Mậu Lăng, quận Phù Phong .
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Cảnh Hiếu Đế** (chữ Hán: 景孝帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tống Cảnh Hiếu Đế * Nguyên Cảnh Hiếu Đế (có tôn hiệu là Thánh Hiếu Đế)
**Cảnh Nguyên Đế** (chữ Hán: 景元帝) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử tuy không làm vua nhưng được hậu duệ làm quân chủ truy tôn. ## Danh sách * Hậu Tần
**Cảnh Chiêu Đế** (chữ Hán: 景昭帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Trung Quốc. ## Danh sách *Ngũ Hồ thập lục quốc Tiền Yên Cảnh Chiêu Đế *Ngũ Hồ
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Tô Mậu** (chữ Hán: 苏茂, ? – 29), người quận Trần Lưu, Duyện Châu , là nhân vật quân sự đầu thế kỷ một trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu ông là tướng lãnh
**Lý Thông** (chữ Hán: 李通, ? – 42), tên tự là **Thứ Nguyên**, người huyện Uyển, quận Nam Dương , là thành viên khởi nghĩa Lục Lâm, quan viên, tướng lĩnh, khai quốc công thần
**Vương Hoành** (chữ Hán: 王闳, ? – ?), người Nguyên Thành, Ngụy Quận , nhân vật chính trị trải qua các triều đại Tây Hán, Tân, Đông Hán. Ông là thành viên duy nhất của
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王元, ? - ?), tên tự là **Huệ Mạnh** hay **Du Ông**, người Trường Lăng, quận Kinh Triệu, là tướng lãnh các lực lượng quân phiệt của Ngôi Hiêu ở Lũng
**Lưu Hu** (chữ Hán: 刘纡, ? – 29), sinh quán Tuy Dương, Lương Quận, Dự Châu , hoàng thân nhà Hán, được công nhận trên danh nghĩa là thủ lĩnh tối cao của các lực
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Ngỗi Hiêu** hay **Ngôi Hiêu** (chữ Hán: 隗囂, ? – 33, còn được phiên âm là **Quỳ Ngao**), tên tự là **Quý Mạnh**, người huyện Thành Kỷ, quận Thiên Thủy , là thủ lĩnh quân
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Âm Lệ Hoa** (Phồn thể: 陰麗華; giản thể: 阴丽华; 5 - 1 tháng 3, 64), còn gọi là **Quang Liệt Âm hoàng hậu** (光烈陰皇后), nguyên phối nhưng là Hoàng hậu thứ hai của Hán Quang
**Ngô Hán** (chữ Hán: 吴汉, ? – 44) tự **Tử Nhan**, người huyện Uyển, quận Nam Dương , tướng lãnh, khai quốc công thần, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng nhà Đông Hán.
, được biết nhiều hơn với cái tên là một nhân vật trong bộ truyện Sailor Moon được viết bởi Naoko Takeuchi. Bên cạnh Sailor Moon, Minako là lãnh đạo của nhóm Chiến binh Thủy
**Lưu Diễn** (chữ Hán: 劉縯; ? – 23), biểu tự **Bá Thăng** (伯升), là tướng quân khởi nghĩa Lục Lâm cuối thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh trai của Hán
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Quách Thánh Thông** (chữ Hán: 郭聖通; 1 - 52), còn gọi **Quang Vũ Quách hoàng hậu** (光武郭皇后) hay **Phế hậu Quách thị** (废后郭氏), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Quang Vũ
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
, được biết nhiều hơn với cái tên , là một nhân vật trong bộ truyện Sailor Moon được viết bởi Naoko Takeuchi, là hoá thân khác của . Ami là một học sinh trung
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Cảnh Vương** (chữ Hán: 景王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ, chư hầu, phiên vương, quận vương hay thân vương trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu
**Cảnh Đế** (chữ Hán: 景帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Hán Cảnh Đế, gọi tắt theo thụy hiệu gốc là Hiếu Cảnh Đế *Ngô Cảnh Đế *Tấn Cảnh
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Cung vương** (_chữ Hán_ 恭王, 龔王, 共王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và chư hầu hoặc phiên vương hay thân vương và quận vương trong lịch sử chế độ phong kiến
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
là một bộ phim điện ảnh Nhật Bản 2016. Đây là phim thứ 36 trong loạt phim điện ảnh Doraemon và là phim thứ 11 trong mùa hai do Yakuwa Shinnosuke phụ trách kịch bản
**Trận Vũ Hán** () hay **Trận phòng thủ Vũ Hán** () theo cách gọi của người Trung Quốc và **Cuộc tấn công Vũ Hán** () theo cách gọi của người Nhật là một trận đánh
**_Quái vật sông Hàn_** (tiếng ) là một bộ phim quái vật của Hàn Quốc năm 2006 do Bong Joon-ho đạo diễn và có sự tham gia của Song Kang-ho, Byun Hee-bong, Park Hae-il, Bae
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Gustav III** (24 tháng 1 năm 1746 – 29 tháng 3 năm 1792), còn được gọi là _Gustavus III_, là Vua Thụy Điển từ năm 1771 cho đến khi bị ám sát vào năm 1792.
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Lưu Đào** (chữ Hán: 刘陶, ? – 185?), tên khác là Lưu Vĩ, tự Tử Kỳ, hộ tịch ở huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán. Ông vì chống
right|thumb|Thủy cung COEX **Thủy cung COEX** (Tiếng Anh: COEX Aqurium, Tiếng Hàn: 코엑스 아쿠아리움) là thủy cung công viên chủ đề biển nằm ở COEX, 513 Yeongdong-daero, Gangnam-gu, Seoul, Hàn Quốc. Nó được điều hành
**Cung hầu** (_chữ Hán_ 龔侯, 宮侯, 恭侯, 共侯) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ chư hầu, tướng lĩnh và quan lại thời phong kiến. ## Thụy hiệu ### Tây
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
**Thánh Đế** (chữ Hán: 聖帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và các nhân vật được hậu duệ làm hoàng đế truy tôn. ## Danh sách * Xuân Thu Chiến Quốc Thục