✨Hán Cao Tổ

Hán Cao Tổ

Hán Cao Tổ (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy Lưu Bang (劉邦), biểu tự Quý (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế gần 7 năm (từ 28 tháng 2 năm 202 TCN đến 1 tháng 6 năm 195 TCN), nếu tính cả thời gian đầu (từ năm 206 TCN lúc ông mới xưng Vương) thì thời gian ở ngôi tổng cộng là gần 12 năm.

Lưu Bang là một trong vài người sáng lập triều đại trong lịch sử Trung Quốc có xuất thân từ giai cấp nông dân chứ không phải là quý tộc, một ví dụ nổi bật khác là Chu Nguyên Chương, người sáng lập triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Trong giai đoạn đầu, Lưu Bang đã được biết đến với danh hiệu Bái công (沛公), với chữ "Bái" là đề cập đến quê hương của ông. Sau đó Lưu Bang được Tây Sở Bá vương Hạng Vũ phong là Hán vương (漢王) trong thời gian Hạng Vũ đứng đầu các chư hầu và tiến hành chia đế chế Tần thành Mười tám nước. Ông được biết đến bởi danh hiệu này trước khi trở thành Hoàng đế của Trung Quốc. Dù là thần dân cũ của nước Sở (giống như Hạng Vũ và Hàn Tín) ở giai đoạn cuối thời Xuân Thu-Chiến Quốc trước khi bị nước Tần (thời Tần Thủy Hoàng) thôn tính nhưng sau khi lên ngôi, Lưu Bang vẫn dùng quốc hiệu "Hán" cũ để tự xưng triều đại của mình, tạo ra một tiền lệ cho tất cả các triều đại về sau ở Trung Quốc đều dùng đất phát tích (hoặc đất được phong) để gọi tên triều đại.

Sau khi ông qua đời, miếu hiệu là Thái tổ (太祖), thụy hiệu là Cao Hoàng đế (高皇帝). Miếu hiệu Thái Tổ là miếu hiệu chính thức của ông, tuy nhiên trong sử thư của các triều đại đời sau đều gọi ông là Hán Cao tổ (漢高祖) hoặc Hán Cao đế (漢高帝), mà hiếm khi lại gọi là Hán Thái tổ (漢太祖).

Tuổi trẻ

Lưu Bang (còn được gọi là Lưu Quý, Hán vương, Bái công, Hán Cao tổ) được sinh ra trong một gia đình nông dân ở ấp Phong của huyện Bái (nay là huyện Phong thuộc tỉnh Giang Tô). Tên cha của ông không được ghi lại trong lịch sử và chỉ được gọi là Lưu Thái công và Lưu Ảo (刘媪 ). Người ta nói rằng mẹ ông do mang thai với rồng mà sinh ra Lưu Bang. Đế Nghiêu, người có nguồn gốc từ Hoàng Đế được tuyên bố là tổ tiên của Lưu Bang, thế nhưng đây là một điểm gây tranh cãi vì hầu hết các gia đình quý tộc của Trung Quốc đều tuyên bố là có nguồn gốc từ Hoàng Đế.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lưu Bang có mũi cao, râu dài giống rồng và có 72 nốt ruồi trên chân trái. song lại thẳng thắn, lôi cuốn, lại biết nhẫn nhục và khoan dung.

Lưu Bang từng phải đi phu ở Hàm Dương và trông thấy xa giá và nghi trượng của vua Tần Thủy Hoàng. Khi đó Lưu Bang cảm khái đã nói một câu:"Ôi! Đại trượng phu phải sống như thế chứ!". Sau đó, Lưu Bang làm Đình trưởng ở Tứ Thượng, dần dần ông quen biết và thân thiện với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu Hà, Tào Tham. Trong khi uống rượu với bạn bè của mình trong các quán rượu địa phương, họ thường nhận thấy hình bóng của một con rồng trên người Lưu Bang bất cứ khi nào ông say rượu. Các chủ quán rượu cảm thấy Lưu Bang là một người phi thường và thường cho ông uống rượu miễn phí. Trong một buổi tiệc chiêu đãi lớn như vậy, cha của Lã Trĩ là Lã Công cho là Lưu Bang sẽ làm nên nghiệp lớn, nên đã đem Lã thị thành hôn với Lưu Bang, sinh được một con gái (Lỗ Nguyên Công chúa) và một con trai tên là Lưu Doanh.

Khởi nghĩa chống Tần

Chém rắn dấy binh

Lưu Bang được huyện lệnh huyện Bái giao trọng trách đưa một số người bị kết án và dân phu đi tới núi Ly Sơn để xây dựng lăng mộ của Tần Thủy Hoàng. Mới đi đến huyện Phong cách huyện Bái không xa thì bọn dân phu trốn quá nửa. Đêm đến tại Phong Tây dịch trạm, Lưu Bang bèn phải thả hết cho trốn, bản thân cũng bỏ trốn với hơn mười tráng sĩ nguyện đi theo giúp sức. Sự kiện được gọi là Phong Tây dịch tung đồ. Trong truyền thuyết, họ gặp phải một con mãng xà lớn màu trắng, Lưu Bang dùng kiếm giết con mãng xà. Đột nhiên xuất hiện một bà già khóc lóc trên đường. Khi người của Lưu Bang hỏi tại sao lại khóc, bà trả lời: "Con tôi là con trai của Bạch đế, hóa thành mãng xà trắng lại bị giết chết bởi con trai của Xích đế rồi" và biến mất một cách bí ẩn. Nghe được câu chuyện lạ lùng này, người của Lưu Bang tin rằng ông có chân mệnh đế vương. Sự kiện này do đó được gọi là Trảm xà khởi nghĩa (斬白蛇起義).

Thu phục huyện Bái

Lưu Bang và những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang gần đất Bái và sống ngoài vòng pháp luật. Ông tuy vậy vẫn duy trì việc bí mật liên lạc với bạn bè cũ của mình ở quê nhà, chẳng hạn như Tiêu Hà và Tào Tham. Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa, khắp Sơn Đông, Hà Bắc các nơi đều hưởng ứng. Quan lại địa phương của nhà Tần không chế ngự được.

Quan huyện Bái thấy khắp nơi khởi nghĩa nên cũng muốn khởi quân tham gia, bèn theo lời khuyên của Tiêu Hà, Tào Tham, cho Phàn Khoái (một họ hàng của Lưu Bang) mời Lưu Bang về để tăng thanh thế. Lưu Bang cùng người của mình đến nơi, quan huyện lại đổi ý, đóng cửa thành, lại muốn giết cả Tiêu, Tào vì sợ những người này làm nội ứng. Tiêu, Tào trốn theo Lưu Bang, bàn kế cho Lưu Bang bắn thư vào thành thuyết phục các bậc trưởng lão để họ cho con em đuổi quan huyện để đón mình. Kế thành công, Lưu Bang được tôn làm Bái Công (沛公) lãnh đạo người dân huyện Bái tham gia khởi nghĩa.

Tiêu Hà, Tào Tham cùng Phàn Khoái sau đó đều tập hợp hai ba nghìn con em đất Bái theo Lưu Bang. Ông đánh quận Hồ Lăng và quận Phương Dư rồi về giữ đất Phong.

Tìm nơi nương tựa

Năm 208 TCN, Giám quận Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Bình đem quân vây đất Phong. Lưu Bang xông ra đánh, thắng trận. Lưu Bang sai Ung Xỉ giữ đất Phong, còn mình đem binh đến đất Tiết, đánh thái thú ở Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Tráng. Tráng bị đánh bại bỏ chạy đến huyện Thích, bị Tả tư mã của Lưu Bang bắt được và giết chết.

Lưu Bang quay về đóng quân ở Cang Phụ và đi đến quận Phương Dư. Cùng lúc đó tướng nước Ngụy là Chu Thị cũng đến đánh Phương Dư, nhưng chưa đánh trận nào. Chu Thị bèn sai người dụ Ung Xỉ đang giữ đất Phong. Ung Xỉ thuận hàng theo Ngụy.

Lưu Bang bị mất đất Phong rất tức giận nhưng sức không đủ chiếm lại. Lúc đó ông nghe tin nói Ninh Quân và Tần Gia đã lập Cảnh Câu làm Sở Giả vương ở thành Lưu để thay thế Trần Thắng bị hại, bèn đến theo họ, ý muốn xin quân để đánh đất Phong. Ninh Quân cùng Lưu Bang đem quân về phía tây đánh huyện Tiêu nhưng bất lợi, hai người đem quân trở về, tập hợp quân ở đất Lưu rồi đem binh đánh chiếm được đất Đường, thu binh được hơn 5000 người. Sau đó, ông đánh lấy được Hạ Ấp rồi cùng Ninh Quân đem quân về đóng gần đất Phong.

Ít lâu sau, Hạng Lương khởi binh ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang, đánh diệt Tần Gia. Lưu Bang nghe tin Hạng Lương đóng quân ở thành Tiết, nên đem một trăm quân kỵ yết kiến. Hạng Lương cho Lưu Bang 5000 quân, 10 ngũ đại phu làm tướng.

Hạng Lương lập Mễ Tâm làm Sở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần rồi chia quân làm 2 cánh: tự mình đi đánh Chương Hàm, đồng thời sai Hạng Vũ đi cùng Lưu Bang đánh Thành Dương. Lưu Bang và Hạng Vũ làm cỏ dân Thành Dương, rồi bao vây Thành Cao.

Quân Hán không chống cự nổi, Lưu Bang phải cùng Hạ Hầu Anh ngồi một xe theo cửa ngọc môn ra khỏi Thành Cao chạy lên phía bắc, vượt sông Hoàng Hà, chạy nhanh đến Tu Vũ nghỉ đêm ở đấy, tự xưng là sứ giả. Sáng sớm hôm sau ông ruổi ngựa vào thành của Trương Nhĩ, Hàn Tín, lấy ấn tướng quân của Hàn Tín và nắm quân của hai người. Sau đó, Thương Sơn Tứ Hạo xuất hiện và khiến Cao Tổ ngạc nhiên vì họ đã từng từ chối ra giúp ông trước kia. Họ hứa sẽ giúp Lưu Doanh trong tương lai khi trở thành hoàng đế, khiến Cao Tổ quyết định giữ ngôi thái tử của Lưu Doanh.

Đối với chư hầu

Hán Cao Tổ cũng rất quan tâm tới việc hạn chế thế lực của các chư hầu là công thần được phân phong. Ông lần lượt trừ khử hoặc phế truất các công thần làm vua chư hầu và cho các con trai hoặc thành viên hoàng tộc thay thế. Đồng thời, ông giao ước với các quan đại thần rằng:

Việc trừ khử các chư hầu được Lưu Bang tiến hành ngay từ khi mới lên ngôi hoàng đế.

  • Tề: Sau khi cải phong Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, Lưu Bang phong cho con lớn là Lưu Phì làm Tề vương *Lâm Giang: Theo ghi chép của Sử ký, Lâm Giang vương phản Hán, Cao Tổ sai Lư Quán, Lưu Giả mang quân đến bao vây nhưng không hạ được thành. Mấy tháng sau Lâm Giang vương đầu hàng và bị giết ở Lạc Dương.
  • Sở: Năm 200 TCN, Hán Cao Tổ lấy cớ nghi Hàn Tín làm phản vì có người tố giác, bèn theo kế của Trần Bình giả cách ra chơi ở Vân Mộng gần chỗ trấn nhậm của Hàn Tín. Hàn Tín vội ra đón rước, liền bị Lưu Bang bắt giữ mang về kinh đô và giáng làm Hoài Âm hầu. Tới năm 196 TCN, Hàn Tín bị Lã Hậu giết tại kinh đô khi Lưu Bang đang đi đánh Trần Hy. Lưu Bang chia nhỏ nước Sở, lập người con thứ 6 là Lưu Hữu làm Hoài Dương vương, người cháu là Lưu Giao làm Sở vương, Lưu Giả làm Kinh vương.
  • Lương: Năm 197 TCN, Trần Hy làm phản. Lưu Bang triệu tập Lương vương Bành Việt đến hội quân để đánh Hy, nhưng Bành Việt cáo ốm không đi, chỉ cho bộ tướng đi thay. Lưu Bang bèn sai sứ bất ngờ đến bắt ông và giải về Lạc Dương. Lưu Bang nghĩ Bành Việt có công lao nên không giết mà chỉ đày vào huyện Thanh Y đất Thục. Đi nửa đường đến đất Trịnh, Bành Việt gặp Lã Hậu từ Trường An ra Lạc Dương, bèn đến xin nhờ Lã hậu nói với Hán Cao Tổ tha tội. Lã hậu nhận lời, nhưng khi trở về Lạc Dương lại khuyên Lưu Bang giết Bành Việt. Lưu Bang giết Bành Việt và phong người con thứ 5 là Lưu Khôi làm Lương vương.
  • Triệu: Triệu vương Trương Ngao vốn là con rể Hán Cao Tổ. Do Lưu Bang có hành động sỉ nhục Trương Ngao trong lần đến nước Triệu năm 199 TCN, các thủ hạ của Trương Ngao có ý định giết Lưu Bang để trả thù. Năm 198 TCN, ý đồ ám sát lộ ra, các thủ hạ nhận tội, nhất định nói Trương Ngao không biết việc ám sát. Trương Ngao vẫn bị truất ngôi Triệu vương, bị giáng làm Tuyên Bình hầu. Lưu Bang phong cho người con thứ 3 là Lưu Như Ý làm Triệu vương.
  • Hàn: Năm 201 TCN, Lưu Bang dời Hàn vương Tín sang vùng Thái Nguyên xa xôi ở phía bắc, đóng đô ở Mã Ấp, tiếp giáp với Hung Nô. Cùng năm, vua Hung Nô là Mặc Đốn mang quân vây đánh Mã Ấp. Hàn Vương Tín không chống nổi, nhiều lần phải cầu hoà. Lưu Bang nghe tin Hàn vương Tín nhiều lần cầu hoà với Hung Nô nên nghi Tín làm phản, sai sứ đến khiển trách. Hàn Vương Tín lo sợ, bèn quay sang đầu hàng Hung Nô và cùng Hung Nô đánh Hán. Năm 197 TCN, ông sai Vương Hoàng đi thuyết phục Trần Hy làm phản nhà Hán. Tướng Hán là Sài Vũ tấn công Tham Hợp, giết chết Hàn Vương Tín.
  • Đại: Năm 197 TCN, sau khi diệt Trần Hy ở nước Đại, Lưu Bang phong con thứ 4 là Lưu Hằng làm Đại vương
  • Hoài Nam: Sau khi giết Lương vương Bành Việt, Lưu Bang sai người lấy thịt Việt làm mắm gửi cho các chư hầu. Năm 195 TCN, Hoài Nam vương Anh Bố sợ mình sẽ bị thanh trừng bèn cất quân chống lại. Anh Bố giết chết Kinh vương Lưu Giả và đánh tan Sở vương Lưu Giao, nhưng sau đó Lưu Bang cầm quân đi tiêu diệt được Anh Bố. Dẹp xong, Lưu Bang phong cho con thứ 7 là Lưu Trường làm Hoài Nam vương, cháu là Lưu Tỵ làm Ngô vương.
  • Yên: Tháng 10 năm 201 TCN, Yên vương Tạng Đồ làm phản. Cao Tổ thân hành cầm quân đánh, bắt được Yên vương Tạng Đồ, lập thái úy Lư Quán (vốn là bạn thân) làm Yên vương. Năm 195 TCN, sau khi Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố, Trần Hy đều bị giết, đến lượt Lư Quán bị nghi có mưu phản. Lưu Bang sai Phàn Khoái mang quân đi đánh Yên. Lư Quán biết không giữ được nước Yên, bèn mang gia quyến cùng vài ngàn quân rời bỏ nước Yên chạy ra ngoài Vạn Lý Trường Thành. Lưu Bang đã ốm nặng, bèn lập con thứ 8 là Lưu Kiến làm Yên vương, rồi qua đời. Lư Quán không thể phân trần với Lưu Bang, đành phải chạy sang hàng Hung Nô.

Đối ngoại

Vào thời của Tần Thủy Hoàng, mối đe dọa của Hung Nô ở phía bắc đã xuất hiện nên đã phái tướng Mông Điềm dẫn quân tấn công để bảo vệ biên giới phía Bắc trong khi cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đế chế Tần. Mặc dù Mông Điềm đã thành công trong việc đẩy lùi quân Hung Nô, nhưng sau sự sụp đổ của nhà Tần, Hung Nô đã nắm lấy cơ hội này để tiến về phía nam và đột kích biên giới một lần nữa. Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng. Mùa đông năm 200 TCN, Hán Cao Tổ đích thân ra quân đánh Thiền vu Hung Nô là Mặc Đốn, không nghe theo lời khuyên của Lâu Kính.

Tại trận Bạch Đăng, 7 vạn quân Hán bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Cao Tổ bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, trong hoàn cảnh rất nguy khốn. Ông theo lời của Trần Bình sai người đến thuyết phục vợ Mặc Đốn là Yên Chi tác động, Mặc Đốn mới rút quân.

Sau thất bại tại Bình Thành, Hán Cao Tổ từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ Hung Nô. Ông quyết định nhân nhượng họ bằng cách gả con gái các gia đình quý tộc và cung cấp cống phẩm hàng năm cho các tù trưởng Hung Nô để đổi lấy hòa bình giữa hai bên. Chính sách này đã kéo dài liên tục trong 70 năm.

Qua đời

Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ bị thương bởi một mũi tên khi đi dẹp loạn Anh Bố. Ông bị ốm phải nằm trong cung, không muốn gặp ai, sai thị vệ canh phòng không cho ai vào. Hơn 10 ngày sau, Phàn Khoái sốt ruột không nén được bèn dẫn đầu các quan đẩy cửa cung mà vào chỗ Lưu Bang, thấy Lưu Bang đang gối trên đùi một hoạn quan ngủ. Phàn Khoái tiến lại gần, gào khóc nói: "Buổi đầu, bệ hạ cùng vi thần khởi binh ở đất Bái, bình định thiên hạ, lúc đó oai dũng biết bao! Nay thiên hạ đã định, bệ hạ lại mệt mỏi đến thế! Bệ hạ bệnh tình trầm trọng, đại thần đều lo sợ, bệ hạ không chịu tiếp kiến chúng thần bàn bạc việc nước, lại chỉ ở riêng với một hoạn quan mà bỏ người trong thiên hạ đi sao? Vả chăng, bệ hạ không thấy gương Triệu Cao làm loạn hay sao?". Lưu Bang nghe vậy đành phải ngồi dậy để gặp các đại thần.

Sức khỏe của ông ngày càng xấu đi và Lã hậu cho mời những thầy thuốc giỏi nhất để cứu chữa. Khi Hán Cao Tổ hỏi về tình trạng của mình, thầy thuốc nói rằng bệnh của ông có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, Hán Cao Tổ không hài lòng và đã mắng thầy thuốc rằng: "Ta đây quần thô áo vải, tay 3 tấc gươm cùn mà đoạt thiên hạ, há chẳng phải ý trời hay sao? Sống chết có mạng, dù có đến Biển Thước cũng không thay đổi được!". Hán Cao Tổ từ chối thuốc men điều trị và mời thầy thuốc đi với một số vàng.

Nhân lúc Lưu Bang tỉnh táo, Lã Hậu hỏi: "Sau khi bệ hạ muôn tuổi, mà thừa tướng Tiêu Hà cũng mất, thì nên cho ai làm thừa tướng?". Lưu Bang đáp: "Tào Tham làm được". Lã Hậu lại hỏi sau Tào Tham là ai. Lưu Bang lại đáp: "Vương Lăng có thể thay được. Tuy nhiên Vương Lăng tính trực mà ương, cần phải có Trần Bình giúp sức. Trần Bình trí khôn có thừa nhưng không thể gánh vác một mình. Chu Bột là kẻ thật thà, tính thận trọng, nên cùng hắn làm chức Thái úy". Lã Hậu lại hỏi về sau, Lưu Bang nói: "Sau đó thì ngươi cũng không biết được".

Sau đó ông qua đời ở cung Trường Lạc vào ngày 1 tháng 6 năm 195 TCN, hưởng thọ 63 tuổi. Ông được truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖) nhưng do Tư Mã Thiên chép trong Sử Ký là Cao Tổ Bản Kỷ nên đời sau thường gọi là Hán Cao Tổ (漢高祖), thụy hiệu là Hán Cao Hoàng Đế (孝高皇帝) nên cũng được gọi là Hán Cao Đế (漢高帝).

Thái tử Lưu Doanh, con trai cả Cao Tổ với Lã hậu nối ngôi, tức Hán Huệ Đế. Tuy nhiên, Cao Tổ vốn không thích Lưu Doanh vì cho rằng Doanh quá yếu đuối. Con trai Thích phu nhân, người thiếp yêu của ông, là Như Ý được ông định lập lên thay Thái tử nhưng bất thành vì các quan trong triều vẫn trung thành với Thái tử và Lữ Hậu. Ông bèn phong Như Ý làm Triệu Vương.

Sự sủng ái của Hán Cao Tổ dành cho Thích phu nhân và Như Ý khiến Lã hậu căm giận. Sau khi Huệ Đế lên nối ngôi, Lã Hậu nắm hết quyền lực trong tay, đầu độc giết Như Ý và tra tấn đến chết Thích Phu nhân. Ngoài ra, nhiều người con khác của Lưu Bang cũng lần lượt bị Lã Hậu giết.

Tên và các danh hiệu

Trước khi Lưu Bang lên ngôi, chức tướng đứng đầu triều được gọi là tướng bang. Kết quả khảo cổ còn cho thấy những chữ "tướng bang Lã Bất Vi" (nước Tần) khắc trên cái qua hay ấn "tướng bang Hung Nô". Từ khi ông lên làm vua, chức này được đổi gọi là tướng quốc vì kiêng tên húy của ông. Những vị tướng quốc đầu thời Hán như Tiêu Hà, Tào Tham đều là công thần khai quốc sống cùng thời với ông.

Khi Lưu Bang nổi dậy để hưởng ứng theo Trần Thắng, được mọi người gọi là Bái công (沛公). Sau đó ông được Sở Hoài vương phong làm Vũ An hầu trước khi giao ước đi đánh Tần cùng Hạng Vũ nhưng danh hiệu này ít được nhắc đến.

Khi diệt nhà Tần, ông cũng được Hạng Vũ phong làm Hán vương và thường được gọi bằng chức vị này cho tới khi lên ngôi hoàng đế. Sau khi mất, ông được tôn thụy hiệu là Cao hoàng đế, miếu thiệu là Thái Tổ, nên còn gọi là Hán Cao Đế, chôn cất ở Trường Lăng. Tư Mã Thiên viết sử về ông đặt là Cao Tổ bản kỷ thay vì Thái Tổ bản kỷ, các bộ sử thư sau này đều theo đó mà chép tên hiệu của ông là "Hán Cao Tổ" (dù đúng ra phải chép là Hán Thái Tổ).

Nhận định

Xuất thân

Lưu Bang xuất thân là một nông dân bình thường, ông không phải là quý tộc như các vị vua khai sáng 4 triều đại trước đó là Hạ, Thương, Chu và Tần. Dù vậy, ông được các sử gia cổ đại thêu dệt nhiều yếu tố thần thoại để chứng minh ông là "chân mệnh thiên tử". Các sử gia hiện đại chỉ ra rằng: câu chuyện bà mẹ ông thụ thai với rồng chỉ là sự tưởng tượng và là biểu hiện của việc có mẹ mà không có cha. Chuyện khi ông đi lẩn trốn có mây lành, được cụ già xem bói tiên tri định mệnh phú quý, Tần Thủy Hoàng thấy phía đông nam có khí thiên tử là ứng vào Lưu Bang hay việc ông chém rắn thần… ngoài chính những người thân trong gia đình ông thì người ngoài đều không thể nào kiểm chứng. Mặt khác, dù không tin vào những chuyện thần thoại đó thì đương thời không ai dám công khai phủ nhận.

Sau cái chết của Trần Thắng và Ngô Quảng, những người tranh hùng thiên hạ khi đó đều có địa vị xã hội cao hơn chức Đình trưởng của Lưu Bang và có sức hiệu triệu thiên hạ lớn hơn Lưu Bang. Bản thân ông chỉ có 3000 quân, khi bị Ung Xỉ phản bội thì ngay việc quay về đánh chiếm lại quê hương là đất Phong cũng không nổi, phải bôn ba đi xin quân của Tần Gia, Hạng Lương.

Khi chinh phục thiên hạ

Theo đánh giá của các nhà sử học, Lưu Bang hoàn toàn trái ngược với đối thủ Hạng Vũ. Trong khi Hạng Vũ thường được coi là lãng mạn và quý tộc, Lưu Bang thường bị coi là thô lỗ. Hạng Vũ luôn tỏ ra nhân đức đối với các tướng và lính tráng dưới quyền, nhưng lại là một nhà chính trị kém cỏi. Trong khi đó Lưu Bang xuất thân thấp, ít học, tự biết mình tài năng có hạn, nên ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người khác, tận dụng tài năng của cấp dưới để thành sự nghiệp.

Lưu Bang gặp Lịch Tự Cơ với thái độ bất lịch sự, nhưng khi hiểu ra đã nhanh chóng sửa đổi; khi ông tiến vào Hàm Dương cũng ham hưởng thụ, nhưng đã dừng lại theo lời khuyên của Trương Lương, Phàn Khoái để tránh bị Hạng Vũ mang quân đến đánh; khi ông bị Hạng Vũ phong làm Hán vương, đẩy vào đất Thục từng phẫn nộ muốn đánh trả, song biết nhẫn nhịn theo ý kiến Tiêu Hà, Chu Bột để chờ thời cơ thuận lợi; ông cũng tức giận khi Hàn Tín đòi phong Tề giả vương, nhưng khi thấy Trương Lương, Trần Bình ghé tai góp ý đã chiều lòng Hàn Tín để tận dụng binh lực của Hàn Tín diệt Sở… Những việc làm đó của Lưu Bang khác hẳn với Hạng Vũ ỷ vào tài năng, tư cách, chỉ làm theo ý mình, không lắng nghe lời góp ý. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn và đáng bất bình, Lưu Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe ý kiến của người khác nên thu phục được nhân tâm.

Lưu Bang khác Hạng Vũ ở chỗ: ông biết cai trị khoan hòa với nhân dân, biết lắng nghe những ý kiến hợp lý của người khác. Còn Hạng Vũ thì như Tư Mã Thiên nhận xét, chỉ biết "Tự khoe khoang công trạng, chỉ dùng cái trí của mình mà không chịu bắt chước người xưa, cho rằng có thể lấy võ lực dẹp yên thiên hạ"

Là người xuất thân thấp kém, Lưu Bang không thể dùng những cách thức "chính danh" để lọt vào hàng ngũ đứng chung với giới quyền lực. Vì vậy khi đến nhà Lã Công (cha vợ tương lai), ông nói dối là mình có cả vạn đồng tiền dù không có tiền, kết quả là được Lã Công gả con.Nếu Lưu Bang thỏa mãn với việc trở thành vua Quan Trung như giao ước của Sở Nghĩa Đế, không tiến về phía đông nữa, có thể sau này ông sẽ bị Hạng Vũ hoặc các chư hầu vương khác thôn tính trong cuộc hỗn chiến. Trường hợp Hạng Vũ bằng lòng để Lưu Bang có Quan Trung, cục diện Trung Quốc sẽ trở lại thời Chiến Quốc, bị phân chia thành nhiều quốc gia và chiến tranh sẽ tiếp tục kéo dài. Trong khi Lưu Bang có thể đã có chủ ý làm giảm uy tín Hạng Vũ, ông đã chính xác khi nói về nguyên nhân chiến thắng trước Hạng Vũ:.

Sau khi các chư hầu bị trừ hết, chỉ còn lại Trường Sa vương Ngô Thần (con Ngô Nhuế thời Hán Sở nối chức) là vị phiên vương không phải họ Lưu, vì đất Trường Sa xa xôi, ẩm thấp, ít tài nguyên, dân cư thưa thớt chỉ có 2 vạn hộ, và bản thân Trường Sa vương Ngô Thần là người cẩn thận tuyệt đối, lại giúp Lưu Bang diệt Anh Bố.

Sự hậu hĩnh phong đất trong thời kỳ đầu cho các công thần đã khiến thế lực của họ quá mạnh: 7 nước chư hầu chiếm hơn nửa giang sơn Trung Hoa, lãnh thổ do nhà Hán thực sự quản lý chỉ có 15/40 quận. Hơn nữa, Lưu Bang tuổi cao sức yếu, ông biết thái tử Lưu Doanh tài năng kém cỏi và nhu nhược không thể giữ được cơ nghiệp trước thế lực lớn mạnh của các chư hầu. Dù hiện tại họ không có ý định làm phản, nhưng không có gì đảm bảo khi thái tử Doanh non kém nối nghiệp họ sẽ tiếp tục trung thành với Hán thất. Do đó Lưu Bang và Lã Trĩ chọn giải pháp diệt trừ họ. Việc làm của vợ chồng Lưu Bang được xem là chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh đó

Lưu Bang được nhìn nhận là một nhà chính trị kiệt xuất. Ông biết cách thu hút, tận dụng tài năng và điều khiển quần hùng. Có ý kiến khác cho rằng: Sau Lưu Bang, nhiều vị vua khai quốc khác cũng sát hại công thần; những trường hợp như Hán Quang Vũ Đế, Tống Thái Tổ không sát hại công thần rất hiếm có; hành động sát hại công thần không nên chỉ quy tội cho cá nhân một vị hoàng đế mà cần phải xem đó là chính sách gần như tất yếu của chế độ chuyên chế tập quyền phong kiến. Kể cả Hán Quang Vũ Đế, Tống Thái Tổ dù không sát hại công thần nhưng cũng phải đề ra biện pháp thu hết binh quyền của họ về tay mình, không để công thần nắm binh quyền nữa.

Mặt khác, việc sát hại công thần của Lưu Bang thường bị phóng đại. Thực tế, khoảng 143 công thần mà Lưu Bang phong thưởng sau khi lập quốc, chỉ có vài người bị sát hại (là những người có binh lực mạnh và Lưu Bang không tin tưởng), còn đa số những người khác vẫn được đối xử tốt (Trần Bình, Chu Bột, Quán Anh, Trương Lương, Tiêu Hà, Tào Tham, Trương Ngao...), họ vẫn trung thành phục vụ con cháu Lưu Bang sau khi ông đã qua đời.

Ghi nhận công lao

Với cục diện chính trị thống nhất, ít còn nguy cơ hỗn loạn mà Lưu Bang để lại, người dân Trung Quốc cuối cùng đã có thể yên ổn an cư lạc nghiệp, đất nước cơ bản được hưởng hòa bình lâu dài gần 200 năm, không còn lâm vào cảnh chiến tranh loạn lạc, chết chóc khắp nơi kéo dài suốt hàng trăm năm trước đó. Chính trị yên ổn đã giúp nền kinh tế, văn hóa Trung Quốc thời nhà Hán phát triển mạnh, lãnh thổ và tầm ảnh hưởng cũng được mở rộng hơn hẳn so với thời nhà Tần. Người Trung Quốc hiện nay vẫn gọi mình là "người Hán", chính là để thể hiện sự ca ngợi công lao của triều đại do Lưu Bang sáng lập.

Gia quyến

  • Thân phụ: Lưu Thái công (劉太公; ? - 197 TCN), tôn làm Thái thượng hoàng (太上皇).

  • Thân mẫu: Lưu Ẩu (劉媼), thụy phong làm Chiêu Linh hoàng hậu (昭靈皇后).

  • Anh chị em:

    Đại ca: Vũ Ai vương Lưu Bá (武哀王劉伯), mất sớm.

    Nhị ca: Đại Khoảnh vương Lưu Hỉ (代顷王劉喜; ? - 193 TCN). Con trai là Ngô vương Lưu Tị (刘濞).

    Tứ đệ: Sở Nguyên vương Lưu Giao (楚元王劉交; ? - 178 TCN). Tương truyền ông là tổ tiên của Lưu Tống Vũ Đế Lưu Dụ (劉裕).

    Đại tỉ: Tuyên phu nhân (宣夫人).

  • Hậu phi: Lã Trĩ (吕雉), người Bái huyện, nguyên phối của Hán Cao Tổ, sau khi mất được truy thụy Hiếu Cao hoàng hậu (孝高皇后). Bạc phu nhân (薄夫人), còn gọi Bạc cơ (薄姬), ban đầu là vợ Ngụy vương Báo, sau Hán Cao Tổ lập làm thiếp thất, cháu nhiều đời là Hán Quang Vũ Đế truy thụy Cao hoàng hậu (高皇后). Thích phu nhân (戚夫人), còn gọi Thích cơ (戚姬), người Định Đào. Là phi thiếp được Cao Tổ sủng ái nhất. Đường phu nhân (唐夫人), còn gọi Đường cơ (唐姬), nữ thi nhân thời Hán sơ, tác giả tác phẩm An thế phòng trung ca (安世房中歌). Thạch mỹ nhân (石美人), còn gọi Thạch cơ (石姬), chị của Vạn Thạch quân Thạch Phấn (石奋). Tình phụ vô phong hiệu: Triệu cơ (赵姬), thiếp của Triệu vương Trương Ngao, sau Ngao đem Triệu Cơ vào hầu Hán Cao Tổ. Do sự hành thích của Quán Cao (贯高) mà bị liên lụy, tống giam vào ngục, khi đó bà đã mang thai. Sau khi sinh con trai Lưu Trường (劉长), Triệu Cơ bi phẫn mà tự sát. Tào thị (曹氏), tình nhân của Hán Cao Tổ khi ông còn làm đình trưởng.

  • Hoàng tử:

    Tề Điệu Huệ vương Lưu Phì (齐悼惠王劉肥; ? - 195 TCN), mẹ Tào thị.

    Hán Huệ Đế Lưu Doanh (劉盈), mẹ Lã hậu.

    Triệu Ẩn vương Lưu Như Ý (赵隐王劉如意; ? - 195 TCN), mẹ Thích phu nhân. Bị Lã hậu giết chết.

    Đại vương Lưu Hằng (劉恆), tức vua Hán Văn Đế, mẹ Bạc phu nhân.

    Triệu Cộng vương Lưu Khôi (赵共王劉恢; ? - 180 TCN), mẹ không rõ, ban đầu phong Lương vương (梁王), bị Lã hậu ép tự sát.

    Triệu U vương Lưu Hữu (赵幽王劉友; ? - 180 TCN), mẹ không rõ, bị Lã Hậu bỏ chết đói.

    Hoài Nam Lệ vương Lưu Trường (淮南厉王劉长; 199 TCN - 174 TCN), mẹ Triệu cơ.

    Yên Linh vương Lưu Kiến (燕灵王劉建; ? - 181 TCN), mẹ không rõ.

  • Hoàng nữ:

    Lỗ Nguyên công chúa (魯元公主), mẹ Lã hậu, hạ giá Triệu vương Trương Ngao.

Trong văn học

Tây Hán chí

Tiểu thuyết Tây Hán chí còn được gọi tên là Hán Sở tranh hùng, là tác phẩm khuyết danh tác giả, gồm 100 hồi kể về cuộc chiến lật đổ nhà Tần và tranh giành thiên hạ giữa Lưu Bang và Hạng Vũ. Nhân vật Lưu Bang được tác phẩm xây dựng là chính thống, có chân mệnh thiên tử, nhân từ và bản lĩnh chính trị, đối lập với Hạng Vũ tàn bạo nóng nảy.

Trọng Tương vấn Hán

Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.

Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Lưu Bang bị đầu thai làm Hán Hiến Đế, còn danh tướng Hàn Tín nhiều chiến công bị Lưu Bang giết oan thì đầu thai làm Tào Tháo tung hoành thiên hạ và chèn ép vua Hiến Đế.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Lưu Nghiễm** (; 889 thứ sử và kết hôn với người cháu gái gọi bằng chú của Vi Trụ (韋宙)- từng là tể tướng triều Đường, Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên,
**Hán Cao Tổ** (_chữ Hán_:漢高祖) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách #Hán Cao Tổ Lưu Bang (Hoàng đế khai quốc của nhà Hán, ông có miếu hiệu Thái
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Cao Tổ** (chữ Hán: 高祖) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Trung Quốc, những vị vua Cao Tổ thường là người khai sáng ra triều đại đó. Cao Tổ còn
**Hán Thái Tổ** (_chữ Hán_:漢太祖) có thể là một trong các nhân vật lịch sử quan trọng sau: ## Vua Trung Quốc #Lưu Bang, Hoàng đế khai quốc nhà Tiền Hán, do Sử ký ghi
**Triệu Cao Tổ** (_chữ Hán_:趙高祖) có thể là những vị hoàng đế nước Triệu sau: ## Danh sách *Tiền Triệu Cao Tổ Lưu Uyên (có thụy hiệu khác là Thái Tổ, vì trước đó quốc
**Hán Thủy Tổ** (_chữ Hán_:漢始祖) có thể là những vị tổ tiên nhà Hán được hậu thế làm hoàng đế truy tôn sau: ## Danh sách *Hán Thủy Tổ Lưu Thái Công (Hán Cao Tổ
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Thích phu nhân** (chữ Hán: 戚夫人, ? - 194 TCN), hay còn gọi là **Thích Cơ** (戚姬), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Cao Tổ Lưu Bang, người sáng lập ra
**Giang Tô** (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là "Tô" (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh. Năm 2018,
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Trương Lương** (chữ Hán: 張良; trước 250 TCN - 186 TCN), biểu tự **Tử Phòng** (子房), là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**_Tây Hán diễn nghĩa_** (chữ Hán: 西漢演義), tên đầy đủ là **_Tây Hán thông tục diễn nghĩa_** (chữ Hán: 西漢通俗演義) hay **_Tây Hán diễn nghĩa truyện_** (chữ Hán: 西漢演義傳) một bộ tiểu thuyết lịch sử
MÔ TẢ SẢN PHẨMThông tin chi tiết sản phẩm chân váy xòe xếp ly tennis hàn ly to / chân váy ngắn cạp lưng cao phong cách ulzzang- Kiểu dáng: váy xòe ngắn- Màu sắc:
**Bành Việt** (chữ Hán: 彭越; ? - 196 TCN) là công thần khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Tướng quân giữ mệnh lệnh Bành Việt tên tự là Trọng, người Xương
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Lưu Phần**, **Lưu Phân** hay **Lưu Bân** (劉玢) (920 song kỷ về Lưu Phần trong thư tịch này thì ghi rằng bà vốn vô sủng. Do đại ca Lưu Diệu Xu (劉耀樞) và nhị ca
**Cao Tùng Hối** () (891-1 tháng 12, 948), gọi theo thụy hiệu là **Nam Bình Văn Hiến Vương** (南平文獻王), tên tự **Tuân Thánh** (遵聖), là quân chủ từ năm 929 đến năm 948 của nước
**Lưu Phì** (chữ Hán: 劉肥, 221 TCN -189 TCN), tức **Tề Điệu Huệ vương** (齊悼惠王), là vị vua thứ hai của tiểu quốc Tề, chư hầu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Trịnh Hưng** (chữ Hán: 郑兴, thế kỷ 1), tự **Thiếu Cống**, người Khai Phong, Hà Nam, học giả đầu đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bậc đại Nho, được đời sau
**Trần Hy** (chữ Hán: 陈豨, ? – 195 TCN), người Uyển Cù, nhân vật quân sự cuối Tần đầu Hán, về sau phản Hán, thất bại bị giết. ## Tiểu sử Trần Hy vốn là
**Lỗ Nguyên công chúa** (chữ Hán: 鲁元公主; ? - 187 TCN), còn gọi là **Lỗ Nguyên Thái hậu** (魯元太后) là một Hoàng nữ và là Công chúa thời Tây Hán. Bà là Đích trưởng nữ,
MÔ TẢ SẢN PHẨMThông tin chi tiết sản phẩm quần legging nữ nâng mông túi zip xuất hàn cao cấp- Chất liệu : cotton co giãn, mềm ,giặt máy thoải mái. - Kiểu dáng :
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
CHI TIẾT SẢN PHẨM Bộ Thể Thao Nam Cổ Bẻ Ngắn Tay Sport Migdomo Vải Thun Lạnh Hàn Cao Cấp Thoáng Mát, Co giãn 4 Chiều Cách chọn size: Shop có bảng size mẫu. Bạn
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều
**Trận Cai Hạ** diễn ra vào năm 202 TCN vào cuối chiến tranh Hán-Sở giữa lực lượng của Lưu Bang và Hạng Vũ. Trước đây, quân Hán đã giành được nhiều chiến thắng trong cuộc
**Chiến tranh Hán – Nam Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Hán (còn gọi là Nhà Tây Hán) và nước Nam Việt thời Nhà Triệu vào cuối thế kỷ 2 trước Công nguyên.
**Thái Mục Đậu hoàng hậu** (chữ Hán: 太穆竇皇后, 569 - 613), đương thời gọi **Đậu phu nhân** (竇夫人), là chính thất thuở hàn vi của Đường Cao Tổ Lý Uyên, vị hoàng đế sáng lập
-HỒNG SÂM BABY-NHUNG HƯƠU-SOLIFE- ngon ngủ ngon, hấp thụ tốt dinh dưỡng. Hàng chính ngạch HQ của CTY CHUNHO. Được chiết từ nhân sâm củ 6 năm tuổi nguyên chất, Lộc Nhung Hươu , cam
Mang lại sự tiện lợi, vẻ đẹp tự nhiên nhất. Giúp các bạn gái có thể thay đổi kiểu tóc nhanh chóng không cần phải ra tiệm làm tóc. Tránh cho tóc hư tổn vì
- Mang lại sự tiện lợi, vẻ đẹp tự nhiên nhất. Giúp các bạn gái có thể thay đổi kiểu tóc nhanh chóng không cần phải ra tiệm làm tóc. Tránh cho tóc hư tổn
**Lưu Bồn Tử** (chữ Hán: 劉盆子; 10-?), là Hoàng đế nhà Hán thời kỳ chuyển tiếp giữa Tây Hán và Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Theo Hậu Hán thư, Lưu
**Tần Cao Tổ** (_chữ Hán_:秦高祖) có thể là một trong các vị vua thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc sau: ## Danh sách #Tần Cao Tổ Phù Kiện, vua đầu
**Nguỵ Cao Tổ** (_chữ Hán_:魏高祖) có thể là những vị quân chủ nhà Ngụy sau: ## Danh sách *Ngụy Cao Tổ Tào Phi thời Tam Quốc (có miếu hiệu khác là Thế Tổ) *Ngụy Cao
**Thương Cao Tổ** (_chữ Hán_:商高祖) có thể là những vị quân chủ nhà Thương sau: ## Danh sách *Thương Cao Tổ Vương Hợi, vị quân chủ đời thứ 7 của nước Thương đời nhà Hạ,