Lưu Phần, Lưu Phân hay Lưu Bân (劉玢) (920 song kỷ về Lưu Phần trong thư tịch này thì ghi rằng bà vốn vô sủng. Do đại ca Lưu Diệu Xu (劉耀樞) và nhị ca Lưu Quy Đồ (劉龜圖) (được phong vương năm 932) mất sớm, Lưu Hoằng Độ trở thành con trưởng của Nam Hán Cao Tổ.
Năm Đại Hữu thứ 15 (942), Nam Hán Cao Tổ ốm nặng, ông thấy kì tử Lưu Hoằng Độ và Tấn vương Lưu Hoằng Hy đều cao ngạo phóng túng, trong khi hoàng tử Việt vương Lưu Hoằng Xương hiếu cẩn và có tri thức, nên định đưa Lưu Hoằng Độ đến trấn Ung châu (邕州, nay thuộc Nam Ninh, Quảng Tây) và đưa Lưu Hoằng Hy đến trấn Dong châu (容州, nay thuộc Ngọc Lâm, Quảng Tây) nhằm lập Lưu Hoằng Xương. Tuy nhiên, khi Cao Tổ hỏi ý Sùng văn sứ Tiêu Ích (蕭益), người này nói rằng "lập đích dĩ trường, vi chi tất loạn", do vậy Cao Tổ ngưng dự định. Ngày Đinh Sửu (24) tháng 4 (10 tháng 6), Nam Hán Cao Tổ mất. Lưu Hoằng Độ tức hoàng đế vị.
Trị vì
Sau khi tức vị, Lưu Hoằng Độ đổi tên sang Lưu Phần. Ông bổ nhiệm Lưu Hoằng Hi làm phụ chính, cải nguyên Quang Thiên, tôn mẹ Triệu chiêu nghi là hoàng thái phi.
Lưu Phần được thuật lại là sống xa xỉ, hoang dâm vô đạo, không quan tâm đến chính sự. Khi vẫn trong giai đoạn chờ mai táng Nam Hán Cao Tổ, Lưu Phần đã lệnh cho kép hát vào cung để mua vui. Ban ngày ông thường đi chơi nhạc, vui thú chè chén, thậm chí còn bắt nam nữ trong cung nhất loạt đều phải khỏa thân; ban đêm vi hành cùng xướng phụ, có khi còn xông vào nhà dân làm nhục phụ nữ. Do người trái ý ông thường bị xử tội chết, cho nên không ai dám can gián, duy có Lưu Hoằng Xương và Nội thường thị Ngô Hoài Ân (吳懷恩) thường can gián, song ông cũng không nghe theo. Theo tường thuật, ông cũng nghi kị chư đệ, mỗi khi tổ chức yến tiệc ông lại lệnh cho hoạn giả đứng giữ cửa, quần thần và tông thất đều bị khám xét rồi với được vào.
Do phụ thân lúc lâm chung từng có ý định lập Lưu Hoằng Xương lên kế vị nên từ khi lên ngôi, Lưu Phần càng đề phòng với ông ta. Ông chỉ tin tưởng người em thứ tư là Lưu Hoằng Hy. Lưu Hoằng Hy vốn cũng muốn đoạt vị, nên dâng thịnh sức, thanh kỹ để làm vui lòng Lưu Phần, nhằm khiến Lưu Phần thêm tin yêu mình. Do Lưu Phần thích đấu vật dùng tay, Lưu Hoằng Hi lệnh Chỉ huy sứ Trần Đạo Tường chiêu mộ năm lực sĩ là Lưu Tư Triều (劉思潮), Đàm Lệnh Yên (譚令禋), Lâm Thiếu Cường (林少強), Lâm Thiếu Lương (林少良), và Hà Xương Đình (何昌廷) — tập đấu vật tại Tấn vương phủ, sau đó tặng lại cho anh trai. Lưu Phần thấy họ đều tinh thông quyền thuật thì vui thích, liền giữ lại trong cung làm thị vệ cho mình, cũng thường xuyên lệnh cho họ biểu diễn võ thuật cho mình xem. Nhưng không ngờ rằng, chính thời điểm Lưu Phần lên ngôi kế vị, Hoằng Hy đã phối hợp với Lưu Hoằng Xương để đối phó với ông.
Tháng 7 năm 942, một cuộc nổi dậy lớn của nông dân nổi lên tại Tuần châu (循州, nay thuộc Huệ Châu, Quảng Đông) dưới sự lãnh đạo của nguyên huyện lại Bác La Trương Ngộ Hiền (張遇賢), Trương Ngộ Hiền được thuật là do "thần" tuyên bố là người lãnh đạo. Lưu Phần muốn nhân cơ hội này để trừ khử Lưu Hoằng Xương nên bổ nhiệm Lưu Hoằng Xương làm đô thống, Tuần vương Lưu Hoằng Cảo làm phó đô thống, đem quân thảo phạt quân Trương Ngộ Hiền, giao chiến ở Tiền Bạch quán. Quân Nam Hán bất lợi, hai thân vương bị bao vây song được Chỉ huy sứ Trần Đạo Tường (陳道庠) lực chiến cứu giúp nên thoát được, nhiều châu huyện phía đông của Nam Hán bị quân của Trương Ngộ Hiến chiếm. Lưu Hoằng Xương sau đó biết được dụng ý của Lưu Phần khi sai mình đi dẹp loạn, liền giả vờ bị thương nặng nên được miễn xử tội chết. Vậy là âm mưu của Lưu Phần cũng không thực hiện được.
Ngày Bính Tuất (8) tháng 3 năm Quý Mão (15 tháng 4 năm 943), Lưu Phần cùng các chư vương mở tiệc ở Trường Xuân cung và xem màn đấu vật của năm lực sỹ. Đến chiều tối thì bãi yến, Lưu Phần lúc này đã say rượu bí tỉ không biết gì. Lưu Hoằng Hy thấy thời cơ đã đến, sai Trần Đạo Tường và bọn Lưu Tư Triều dìu Lưu Phần về tẩm điện, nhân cơ hội dùng trượng giết ông, ngoài ra các cận thần của ông cũng bị giết tận. Năm đó Lưu Phân mới 24 tuổi. Hôm sau, bá quan chư vương không ai dám nhập cung, Lưu Hoằng Xương dẫn các hoàng đệ vào tẩm điện, nghênh Lưu Hoằng Hi tức hoàng đế vị.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Phần**, **Lưu Phân** hay **Lưu Bân** (劉玢) (920 song kỷ về Lưu Phần trong thư tịch này thì ghi rằng bà vốn vô sủng. Do đại ca Lưu Diệu Xu (劉耀樞) và nhị ca
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Lưu Nghiễm** (; 889 thứ sử và kết hôn với người cháu gái gọi bằng chú của Vi Trụ (韋宙)- từng là tể tướng triều Đường, Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên,
**Nam Hán** () là một vương quốc tồn tại từ năm 917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc.
**Lưu Phan** (chữ Hán: 刘璠, ?- ?), người huyện Tương, Bái (quận) quốc, Duyện Châu , tướng lãnh cuối đời Tây Tấn. ## Cuộc đời và sự nghiệp Cha là Kinh Châu thứ sử Lưu
**Lưu Đào** (chữ Hán: 刘陶, ? – 185?), tên khác là Lưu Vĩ, tự Tử Kỳ, hộ tịch ở huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán. Ông vì chống
**Lưu Khánh** (chữ Hán: 劉慶; 78 - 1 tháng 2, 107), cũng gọi **Thanh Hà Hiếu vương** (清河孝王), một hoàng tử nhà Hán, là con trưởng của Hán Chương Đế Lưu Đát và là cha
**Lưu Hu** (chữ Hán: 刘纡, ? – 29), sinh quán Tuy Dương, Lương Quận, Dự Châu , hoàng thân nhà Hán, được công nhận trên danh nghĩa là thủ lĩnh tối cao của các lực
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,
**Lưu Phương** (chữ Hán: 劉方, ? – 97 TCN), đại thần thời Đông Hán và là tông thất nhà Hán. Phương thuở nhỏ có tài học, thông thạo kinh điển Nho gia. Tháng 8 năm
**Lưu Thịnh** (; 920–958), tên ban đầu là **Lưu Hoằng Hi** (), gọi theo thụy hiệu là **Nam Hán Trung Tông**, là hoàng đế thứ ba của nước Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Lưu Hồng Tháo** (chữ Hán: 劉洪操, ?-938), hay **Lưu Hoằng Tháo** (劉弘操), hay **Lưu Hoằng Thao**, là một hoàng tử và tướng lãnh nhà Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung
**Họ Khúc** là dòng họ nắm quyền cai trị Việt Nam đầu thế kỷ X, mở đầu Thời kỳ tự chủ Việt Nam sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Họ Khúc truyền nối làm chức
VHO - Ngày Văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc tại TP Cần Thơ lần thứ 2 năm 2024 vừa diễn ra trong hai ngày 5-6.10 với nhiều hoạt động. Sự kiện do UBND TP
Mặt Nạ Vàng 24K Glutathione Mịn Sáng Da, Se Khít Lỗ Chân Lông, Mờ Thâm Nám - Hàn Quốc Xuất xứ: Hàn Quốc Hãng sản xuất: Glutathione Trọng lượng: 220 ml– Giúp tươi trẻ làn
Mặt Nạ Vàng 24K Glutathione Mịn Sáng Da, Se Khít Lỗ Chân Lông, Mờ Thâm Nám - Hàn Quốc Xuất xứ: Hàn Quốc Hãng sản xuất: Glutathione Trọng lượng: 220 ml– Giúp tươi trẻ làn
Mặt Nạ Vàng 24K Glutathione Mịn Sáng Da, Se Khít Lỗ Chân Lông, Mờ Thâm Nám - Hàn Quốc Xuất xứ: Hàn Quốc Hãng sản xuất: Glutathione Trọng lượng: 220 ml– Giúp tươi trẻ làn
ÁO KHOÁC PHAO NAM 👉Với thiết kế đơn giản, siêu nhẹ và trẻ trung phù hợp với nhiều đối tượng 👉Với thiết kế 3 lớp viền thời trang, áo có lớp bông bên trong siêu
Duy trì lớp trang điểm trong thời gian dài mà không xảy ra hiện tượng xuống tông khiến khuôn mặt bị tối.Trang Điểm Nhìn Tự Nhiên, Căng Mịn > đặc biệtphấnkhông thấmnướcđâu nhéPhấntạo cảm giác
**Lưu Thực** (, ? – 26), tự Bá Tiên, người Xương Thành, Cự Lộc, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. ## Cuộc đời và
**Lưu Khôi** (), thường được dịch là **Lưu Hội**, không rõ tên tự, là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Ích Châu cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không
MÔ TẢ SẢN PHẨMNước hoa hồng CARYOPHY Portulaca Toner Ngừa và Giảm Mụn Thâm Nám HÀN QUỐC- Thương hiệu: Caryophy- Dung tích: 300ml- Xuất xứ: Hàn QuốcNước hoa hồng CARYOPHY Portulaca Toner Ngừa và Giảm
- KHI MUA HÀNG TẠI CHÚNG MÌNH BẠN SẼ NHẬN ĐƯỢC : * Sản phẩmtrong phân khúc giá. * Cam kết sản phẩm giống hình ảnh đến 99.999% - Khác biệt là màu sắc do
**Lưu Ẩn** (, 874–911) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và thời nhà Lương. Ông từng giữ chức vụ Thanh Hải quân Tiết độ sứ, trị sở nay thuộc Quảng Châu, Quảng
Đền Ngọc Sơn thờ Lưu Cơ ở Ninh Bình **Lưu Cơ** (chữ Hán: 劉基, 924-979) là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm
Vườn sinh thái Tuấn Tường rộn ràng tham gia Ngày Văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc (5/10 - 6/10) Cần Thơ sẽ trở nên sôi động hơn bao giờ hết với Ngày Văn hóa
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Lưu Cứ** (Phồn thể: 劉據; giản thể: 刘据, 128 TCN - 91 TCN), hay còn gọi là **Lệ Thái tử** (戾太子) hoặc **Vệ Thái tử** (衛太子), là Hoàng trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Trọng Tương vấn Hán** (仲襄問漢) là một tác phẩm văn học nói theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời
**Phàn Khoái** (chữ Hán: 樊哙, bính âm: _Fán Kuài_; ?-189 TCN) là công thần khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời hàn vi Phàn Khoái là người huyện Bái, đồng hương
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Lưu Diệu** () (?-329), tên tự **Vĩnh Minh** (永明), là hoàng đế thứ năm của nước Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 318 sau khi hầu hết
**Lưu An** (chữ Hán: 刘安, 179 TCN – 122 TCN), thường được hậu thế xưng tụng là **Hoài Nam tử** (淮南子), là Quốc vương chư hầu thứ tư của nước Hoài Nam thời nhà Hán
**Lưu Tị** (Trung văn giản thể: 刘濞, phồn thể: 劉濞, bính âm: _Liú Pì_, 216 TCN-154 TCN), hay **Ngô vương Tị** (吳王濞), là tông thất nhà Hán, vua của nước Ngô, chư hầu nhà Hán
**Lưu Diễn** (chữ Hán: 劉縯; ? – 23), biểu tự **Bá Thăng** (伯升), là tướng quân khởi nghĩa Lục Lâm cuối thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh trai của Hán
**Hàn vương Tín** (Hán văn phồn thể: 韓王信, giản thể: 韩王信; ? – 196 TCN) là vua chư hầu nước Hàn thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Vì ông trùng tên và sống
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi