Lưu Khôi (), thường được dịch là Lưu Hội, không rõ tên tự, là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Ích Châu cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời
Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Lưu Khôi. Khôi là người trung nghĩa, làm tướng dưới trướng Ích Châu mục Lưu Chương.
Năm 213, Kinh Châu mục Lưu Bị cùng Lưu Chương trở mặt, phát sinh chiến sự. Từ ải Bạch Thủy, quân Kinh Châu hầu như tiến thẳng đến Thành Đô mà không gặp phải ngăn trở, trừ một số trường hợp như Vương Liên ở Tử Đồng. Lưu Chương liền phái Lưu Khôi, Trương Nhiệm, Lãnh Bao, Đặng Hiền, Ngô Ý dẫn quân phòng ngự Phù Thành. Các sách đều để tên Khôi lên đầu tiên, nên có khả năng Lưu Khôi mới là chỉ huy cao nhất.
Quân Ích Châu bại trận, Ngô Ý đầu hàng, Trương Nhiệm rút lui về Miên Trúc cố thủ. Lưu Chương phái Lý Nghiêm cùng con rể Phí Quán chi viện Miên Trúc. Nghiêm, Quán đầu hàng Lưu Bị. Đại quân tan tác, phải lui về Lạc Thành. Lưu Chương lần này phái con trưởng Lưu Tuần đến chi viện. Trương Nhiệm, Lưu Khôi tại Lạc Thành cố thủ hơn một năm thì bị phá. Lưu Chương sau đó đầu hàng. Trong tiệc rượu, Bàng Thống ngầm phái Ngụy Diên múa kiếm định chém Lưu Chương, Trương Nhiệm múa kiếm ngăn lại. Diên ra hiệu Lưu Phong rút kiếm, các tướng Lưu Hội, Lãnh Bào, Đặng Hiền rút gươm kéo ùa ra: Chúng tôi xin múa cả một lượt để góp phần vui. Lưu Bị hoảng hốt ngăn cản, mọi việc mới thôi.
Lưu Bị cùng Lưu Chương trở mặt, giết Dương Hoài, Cao Bái. Chương sợ hãi, phái Lưu Khôi, Lãnh Bào, Trương Nhiệm, Đặng Hiền dẫn năm vạn quân đến giữ huyện Lạc. Trước khi xuất quân, Lưu Khôi đề nghị: Tôi nghe ở núi Cẩm Bình có một dị nhân, đạo hiệu là Tử Hư thượng nhân, biết trước được số sinh, tử, quý, tiện cho người ta. Chúng ta hành quân qua đường núi ấy, nên đến hỏi xem ra làm sao. Trương Nhiệm muốn từ chối: Đại trượng phu đã mang quân đi đánh giặc, can gì phải hỏi đến những người ở nơi sơn dã! Khôi lại thuyết phục: _Không được! Thánh nhân có dạy rằng: Đạo bậc chí thành, có thể điều gì cũng biết trước. Chúng ta hỏi người cao minh, để theo điều hay, tránh điều dở thì có làm sao?_ Bốn tướng bèn lên núi tìm đến Tử Hư. Khôi cầu xin mấy lần, Tử Hư mới để lại một bài kệ. Khi Khôi hỏi số mệnh bản thân cùng các tướng, Tử Hư trả lời: Số trời đã định, không sao tránh được, hỏi chi cho lắm!
Khi đến huyện Lạc, Khôi kiến nghị: Lạc Thành này là một bức tường che chở Thành Đô, nếu mất chỗ này thì Thành Đô cũng khó giữ được. Bốn chúng ta phải chia làm hai cánh: hai người ở nhà giữ thành, hai người phải ra mặt trước Lạc Huyện, tìm chỗ nào rừng núi hiểm trở, lập lấy hai cái trại mà giữ, chớ để cho giặc đến gần thành. Lãnh Bào, Đặng Hiền xin ra ngoài lập trại, còn Lưu Khôi, Trương Nhiệm giữ thành. Sau đó hai trại bị Hoàng Trung, Ngụy Diên chiếm, Lưu Khôi túng thế, phái người về Thành Đô cầu viện. Lưu Chương phái Ngô Ý, Ngô Lan, Lôi Đồng chi viện.
Lưu Bị chia quân đánh Lạc Thành. Trương Nhiệm mai phục, bắn chết Bàng Thống. Ngô Lan, Lôi Đồng truy kích Ngụy Diên. Khi Diên được Hoàng Trung cứu thì Lưu Khôi hội quân cùng Lan, Đồng bao vây, đánh đuổi quân Lưu Bị về ải. Khi Lưu Bị thu được viện binh từ Kinh Châu, Lưu Khôi cùng Ngô Ý dẫn quân ra, phối hợp với Ngô Lan, Lôi Đồng đánh tan quân Ngụy Diên, Hoàng Trung. Quân Xuyên đang thắng trận thì bị Trương Phi đánh úp. Ngô Lan, Lôi Đồng bị chia cắt, buộc phải đầu hàng. Khôi, Ý đành phải rút quân về, bàn rằng: Quân ta thế nguy lắm, không quyết một trận tử chiến, thì làm sao đuổi được quân giặc đi. Vậy phải một mặt đến Thành Đô cầu cứu, một mặt dùng mẹo phá mới xong. Mưu kế thất bại, Ngô Ý bị bắt rồi đầu hàng. Khi được hỏi về các tướng, Ý nhận xét rằng: Lưu Khôi thì chẳng đáng kể, chỉ có Trương Nhiệm là người ở Thục quận, can đảm mà lắm mưu lược, không nên coi thường. Lưu Chương sau đó phái Trương Dực, Trác Ưng chi viện. Trương Nhiệm cùng Trác Ưng dẫn quân đánh cầu Kim Nhạn, còn Lưu Khôi, Trương Dực giữ thành. Kết quả Nhiệm thua trận, bị giết, Ưng đầu hàng. Hôm sau, Nghiêm Nhan, Ngô Ý dẫn các hàng tướng đến gọi hàng. Lưu Khôi ở trên tường thành quát mắng ầm ĩ. Nghiêm Nhan định rút tên ra bắn thì Khôi bị Trương Dực từ đằng sau chém chết, mở thành đàu hàng.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Khôi** (), thường được dịch là **Lưu Hội**, không rõ tên tự, là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Ích Châu cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không
**Lưu Đào** (chữ Hán: 刘陶, ? – 185?), tên khác là Lưu Vĩ, tự Tử Kỳ, hộ tịch ở huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán. Ông vì chống
**Lưu Hu** (chữ Hán: 刘纡, ? – 29), sinh quán Tuy Dương, Lương Quận, Dự Châu , hoàng thân nhà Hán, được công nhận trên danh nghĩa là thủ lĩnh tối cao của các lực
**Lý Thông** (chữ Hán: 李通, ? – 42), tên tự là **Thứ Nguyên**, người huyện Uyển, quận Nam Dương , là thành viên khởi nghĩa Lục Lâm, quan viên, tướng lĩnh, khai quốc công thần
**Tô Mậu** (chữ Hán: 苏茂, ? – 29), người quận Trần Lưu, Duyện Châu , là nhân vật quân sự đầu thế kỷ một trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu ông là tướng lãnh
**Trương Dương** (chữ Hán: 張楊; (151-201) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia cuộc chiến giữa các chư hầu trước khi hình thành cục diện Tam Quốc. ## Chống
**Trương Vũ** (chữ Hán: 张禹, ? – 113), tự **Bá Đạt**, người huyện Tương Quốc, nước Triệu , quan viên nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông nội của Vũ
**Vương Cung** (chữ Hán: 王龚, ? – ?) tự Bá Tông, người Cao Bình, Sơn Dương , quan viên, tam công nhà Đông Hán. ## Thời Hán An đế Cung được sanh ra trong một
**Chu Phù** (chữ Hán: 朱浮, ? – ?), tự Thúc Nguyên, người huyện Tiêu, nước Bái , đại thần, tam công đầu đời Đông Hán. ## Khởi nghiệp Ban đầu Phù theo Lưu Tú, được
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王元, ? - ?), tên tự là **Huệ Mạnh** hay **Du Ông**, người Trường Lăng, quận Kinh Triệu, là tướng lãnh các lực lượng quân phiệt của Ngôi Hiêu ở Lũng
**Trương Mãnh** (chữ Hán: 張猛, ? – 210), tên tự là **Thúc Uy**, người huyện Uyên Tuyền, quận Đôn Hoàng , quan viên cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông bất hòa
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Hàn Toại** (chữ Hán: 韩遂; ?–215), tự **Văn Ước** (文約), là một lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở vùng Lương châu vào đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một
**Đổng Trác** (chữ Hán: 董卓; [132] - 22 tháng 5 năm [192]), tự **Trọng Dĩnh** (仲穎), là một tướng quân phiệt và quyền thần nhà Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung
**Đổng Hiến** (chữ Hán: 董宪, ? – 30), người quận Đông Hải, Từ Châu , thủ lĩnh khởi nghĩa cuối đời Tân, trở thành thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán. ## Cuộc đời
nhỏ|phải|Lưu Yên **Lưu Yên** (chữ Hán: 劉焉; ?-194) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào cuộc chiến quân phiệt cuối triều đại này và là người tạo cơ
Thuận Dương Hoài hầu **Lưu Gia** (chữ Hán: 刘嘉, ? – 39), tự Hiếu Tôn, người huyện Thung Lăng, quận Nam Dương , hoàng thân, tướng lãnh nhà Đông Hán. Cuối đời Tân, ông theo
**Lưu Vĩnh** (chữ Hán: 刘永, ? – 27), sinh quán Tuy Dương, Lương Quận, Dự Châu , hoàng thân nhà Hán, thủ lĩnh tối cao trên danh nghĩa của các lực lượng quân phiệt vùng
**Hán thư** (Phồn thể: 漢書; giản thể: 汉书) là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Hàn Phức** (chữ Hán: 韓馥; 141-191), tên tự là **Văn Tiết** (文節), là tướng và quân phiệt cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Bất đắc dĩ đi hội minh Cuối thời
**Trần Cung** (chữ Hán: giản thể 陈宫 - phồn thể 陳宮) (? - 199), tên tự **Công Đài** (公臺), là một vị mưu sĩ phục vụ cho lãnh chúa Lã Bố vào cuối thời Đông
**Lưu Thực** (, ? – 26), tự Bá Tiên, người Xương Thành, Cự Lộc, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. ## Cuộc đời và
**Vương Khải** (chữ Hán: 王楷; phiên âm: _Wáng Kǎi_; ? - ?) là một mưu sĩ dưới trướng quân phiệt Lã Bố vào cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
Tinh chất khởi động nuôi dưỡng trẻ hóa Sulwhasoo First Care Activating Serum EX Từ 3000 loại thảo mộc trong quyển Đông Y Bảo Giám lưu truyền của Hàn Quốc, các chuyên gia nghiện cứu
**Đỗ Mậu** (, ? – 43), tên tự là **Chư Công**, người Quan Quân, Nam Dương , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. ##
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Lưu Diễn** (chữ Hán: 劉縯; ? – 23), biểu tự **Bá Thăng** (伯升), là tướng quân khởi nghĩa Lục Lâm cuối thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh trai của Hán
nhỏ|Bản đồ các cuộc nổi dậy của nông dân thời nhà Tân, bao gồm các cuộc nổi dậy của Lục Lâm Quân và Xích Mi **Khởi nghĩa Lục Lâm** () là cuộc khởi nghĩa thời
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Lưu Cứ** (Phồn thể: 劉據; giản thể: 刘据, 128 TCN - 91 TCN), hay còn gọi là **Lệ Thái tử** (戾太子) hoặc **Vệ Thái tử** (衛太子), là Hoàng trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Khởi nghĩa Xích Mi** (chữ Hán: 赤眉) là lực lượng khởi nghĩa thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc chống lại sự cai trị của Vương Mãng. Xích Mi quân cùng Lục Lâm quân
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Lưu Thiện** (Trung văn giản thể: 刘禅, phồn thể: 劉禪, bính âm: Liú Shàn), 207 - 271), thụy hiệu là **Hán Hoài đế** (懷帝), hay **An Lạc Tư công** (安樂思公), hoặc **(Thục) Hán Hậu chủ**
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Lưu Nghiễm** (; 889 thứ sử và kết hôn với người cháu gái gọi bằng chú của Vi Trụ (韋宙)- từng là tể tướng triều Đường, Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên,
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế