✨Nam Hán Cao Tổ
Lưu Nghiễm (; 889 thứ sử và kết hôn với người cháu gái gọi bằng chú của Vi Trụ (韋宙)- từng là tể tướng triều Đường, Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên, Lưu Khiêm cũng bí mật có một người thiếp ở bên ngoài là Đoàn thị, Lưu Nham là con trai của Đoàn thị. Khi Vi thị phát hiện ra sự việc, bà sát hại Đoàn thị, song không giết Lưu Nham mà đem về nhà nuôi dưỡng như con đẻ- Lưu Ẩn và Lưu Đài (劉台).
Khi Lưu Nham lớn lên, ông cao lớn, có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Lưu Nghiễm cũng phụng sự cho Lý Tri Nhu, và đổi tên từ Lưu Nham sang Lưu Trắc. Lưu Trắc tiếp tục phục vụ dưới quyền anh trai. Năm 902, Kiền châu thứ sử Lô Quang Trù (盧光稠) tiến công Thanh Hải, chiếm Thiều châu và giao châu này lại cho con trai là Lô Diên Xương, sau đó bao vây Triều châu. Lưu Ẩn đem quân đẩy lui Lô Quang Trù khỏi Triều châu, sau đó chuẩn bị tiến công Thiều châu. Lưu Trắc cho rằng quân của Lô Diên Xương có viện binh từ Kiền châu, nên quân Thanh Hải không thể thành công nếu tiến công trực tiếp. Lưu Ẩn nghe theo, cho bao vây Thiều châu để khiến sức mạnh phòng thủ của Lô Diên Xương suy yếu. Tuy nhiên, chiến lược này lại phản tác dụng do mức nước sông dâng cao, quân Thanh Hải bị gián đoạn nguồn cung lương thảo. Sau đó, Lô Quang Trù đem binh từ Kiền châu đến cứu viện, đẩy lui Lưu Ẩn khỏi Thiều châu.
Năm 904, Đường Ai Đế bổ nhiệm Lưu Ẩn làm Thanh Hải tiết độ sứ. Lưu Trắc trở thành tiết độ phó sứ. Theo ghi chép, ngoài xung đột với Lô Quang Trù, quanh lãnh địa của Lưu Ẩn còn có các quân phiệt khác: Khúc Hạo ở Giao châu; Lưu Sĩ Chính (劉士政) ở Quế châu; Diệp Quảng Lược (葉廣略) ở Ung châu; Bàng Cự Chiêu (龐巨昭) ở Dung châu ; Lưu Xương Lỗ (劉昌魯) tại Cao châu; và Lưu Tiềm (劉潜) tại Tân châu. Thêm vào đó, ở phía đông Châu Giang, có khoảng 70 trại lớn nhỏ không công nhận quyền uy của Lưu Ẩn. Sau khi Lưu Ẩn giao phó quân sự lại cho Lưu Trắc, Lưu Trắc dần dần trục xuất hoặc buộc các quân phiệt phải quy phục, trở thành danh tướng ở Lĩnh Nam.
Năm 911, Lưu Ẩn lâm bệnh nặng, ông ta dâng biểu cho triều đình Hậu Lương để tiến cử Lưu Trắc làm lưu hậu, sau đó liền qua đời. Lưu Trắc kế thừa quyền cai quản Thanh Hải quân, và một thời gian ngắn sau, Hậu Lương Thái Tổ bổ nhiệm Lưu Trắc làm Thanh Hải tiết độ sứ. Ông lại đổi tên thành Lưu Nham., phong tước Nam Bình vương.
Vào mùa thu tháng 9 năm 917, Lưu Nham tức hoàng đế vị ở Phiêng Ngung, đặt quốc hiệu là "Đại Việt", đại xá, cải nguyên Càn Hanh. Ông truy phong tổ phụ Lưu An Nhân (劉安仁), cha Lưu Khiêm, và huynh Lưu Ẩn là hoàng đế.
Nhận thấy nguy cơ từ phía Lưu, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ là Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu gặp vua Lưu Nham, bề ngoài là để ‘‘kết mối hòa hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của Lưu Nham. Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Khúc Thừa Mỹ kế vị làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ.
Tháng 11 ÂL năm 918, sau khi Lưu Nham tế Nam Giao, ông ra lệnh đại xá, cải quốc hiệu từ Việt sang Hán, quốc gia của ông do vậy được gọi là Nam Hán..
Năm 919, Lưu Nham lập Việt quốc phu nhân Mã thị làm hoàng hậu.
Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Khúc Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Hậu Lương rộng lớn ở Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Khúc Thừa Mỹ công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình" (triều đình tiếm ngôi, không chính thống). Sử không chép rõ biểu hiện cụ thể của việc này ra sao, không rõ Khúc Thừa Mỹ tuyên bố việc này với sứ giả Nam Hán sang Tĩnh Hải quân hay theo như một tài liệu nói rằng ông ta sai sứ sang Nam Hán tỏ thái độ bất phục và gọi vua Nam Hán Cao Tổ (Lưu Nham) là "ngụy đình".
Năm 920, theo thỉnh cầu của Dương Động Tiềm, Lưu Nham cho lập học hiệu, khai cống cử, thiết thuyên tuyển. Ông cũng khiển sứ đến Tiền Thục (đời vua Vương Diễn), thiết lập quan hệ hữu hảo.
Năm 922, Lưu Nham tin theo lời của thuật giả rằng ông cần rời khỏi kinh đô để tránh tai họa, do vậy quyết định ngao du Mai Khẩu, gần biên giới với nước Mân (đời vua Vương Thẩm Tri). Tướng Mân là Vương Diên Mĩ đem binh tập kích đoàn của Lưu Nham, song trước khi quân của Vương Diên Mĩ đến nơi, Lưu Nham nhận được báo cáo của trinh sát nên bỏ trốn kịp thời. và Chương châu. Lưu Nham chiến bại trước quân Mân, buộc phải chạy trốn.
Trong khi đó, vào năm 923, Hậu Lương bị Hậu Đường chinh phục, Hậu Đường Trang Tông làm chủ Trung Nguyên. Khi nhận được tin, Lưu Nham trở nên lo sợ trước thế lực hùng mạnh này, và đến năm 925 thì khiển Cung uyển sứ Hà Từ (何詞) đến triều cống cho Hậu Đường Tuy nhiên, trong năm đó có một tăng người Hồ nói với ông rằng Sấm thư "diệt Lưu thị giả vung dã" (theo sấm thư thì diệt họ Lưu là Cung), sau đó ông tham khảo trong Chu Dịch, tạo ra chữ "龑" với nghĩa "phi long tại thiên" (rồng bay lên trời), âm là "Nghiễm". (Tư trị thông giám thì chép lần đổi tên thứ hai này diễn ra vào năm 941.) Cũng vào năm 925, khi vua Đại Trường Hòa là Trịnh Nhân Mân sai em là Trịnh Chiêu Thuần (鄭昭淳) đến Nam Hán cầu hôn, Lưu Cung (lúc này Lưu Nham đã đổi tên thành Lưu Cung) gả một người cháu gái khác là Tăng Thành công chúa làm vợ của Trịnh Nhân Mân.
Chính sách đối ngoại trước giờ của Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ đã khiến Lưu Cung tức giận. Năm 930, Lưu Cung khiển bộ tướng Lương Khắc Trinh (梁克貞) và Lý Thủ Phu (李守鄜) tiến công Giao Châu- thủ phủ của Tĩnh Hải quân; bắt được Tĩnh Hải tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ, Tĩnh Hải quân về tay Nam Hán, chấm dứt quyền lực của họ Khúc. Lương Khắc Trinh còn tiến công Chiêm Thành (đời vua Indravarman III), cướp vật quý của nước này rồi rút lui. Lưu Cung khiển bộ tướng Lý Tiến (李進) làm Thứ sử Giao Châu.
Sử Trung Quốc chép rằng Khúc Thừa Mỹ bị Lưu Cung tìm cách hạ nhục. Lưu Cung hỏi Khúc Thừa Mỹ rằng:
:“Thường ngày ngươi vẫn nói ta là ngụy triều, nay lại bị quân ta trói quặt tay lại như vậy, nghĩa là thế nào?”.
Sau, Khúc Thừa Mỹ buộc phải đầu hàng và lưu vong ở Nam Hán đến cuối đời.
Nam Hán không giữ Tĩnh Hải quân được lâu. Sau khi họ Khúc bị lật đổ, tướng Ái châu Dương Đình Nghệ gây dựng được một đội quân gồm 3.000 con nuôi (dưỡng-giả tử), có ý muốn đoạt lấy Tĩnh Hải quân. Mặc dù Lý Tiến biết về sự việc, song vì nhận hối lộ của Dương Đình Nghệ nên không có hành động gì. Năm 931, Dương Đình Nghệ bao vây Giao Châu. Lưu Cung khiển Thừa chỉ Trình Bảo (程寶) đem binh cứu viện, song thành bị chiếm trước khi Trình Bảo đến nơi. Lý Tiến chạy trốn về kinh đô Phiên Ngung của Nam Hán, bị Lưu Cung giết chết. Trình Bảo bao vây châu thành Giao Châu, đến khi Dương Đình Nghệ xuất chiến, Trình Bảo bại trận tử chiến.
Năm 932, Lưu Cung phong vương cho 19 hoàng tử.
Năm 934, Mã hoàng hậu qua đời.
Cũng vào năm 934, Lưu Cung cho phép hoàng tử lớn tuổi nhất còn sống là phán lục quân- Tần vương Lưu Hoằng Độ và Quế châu của Sở. Khi Sở vương Mã Hy Phạm đem 5.000 bộ-kị binh đến Quế châu, Tôn Đức Uy triệt thoái.
Ngoài thu thập vàng bạc châu báu, một sở thích khác người nữa của Lưu Cung đó là xem cảnh cực hình. Ông đã đưa ra các hình phạt tàn khốc, như cắt lưỡi, phanh thây, xỏ mũi,... Ngoài ra còn có hình phạt nhốt phạm nhân dưới nước, sau đó thả rắn độc xuống cắn cho chết. Khi đao phủ thi hành hình phạt, ông thích được tận mắt chứng kiến cảnh hành quyết, thậm chí ông còn kéo phạm nhân vào cung trị tội để mua vui. Bách tính vừa sợ hãi vừa căm hận ông. Đặc biệt, vào năm 937, sau khi mắc bệnh lâu ngày chữa chưa khỏi, ông càng trở nên độc ác hơn, chỉ thích giải khuây bằng trò giết người. Có lần ông cho thả phạm nhân vào nồi nước nóng, sau đó vớt ra để phơi nắng rồi phết muối và rượu lên người phạm nhân, khiến cho da dẻ nát nhừ, để họ chết từ từ mới thôi.
Năm 937, Lưu Cung nhân việc khỏi bệnh, ban bố đại xá. Lưu Cung cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi, bèn bổ nhiệm hoàng tử- Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tỉ phong Bình Hải tướng quân và Giao Chỉ vương, đem thủy binh đến cứu Giao Châu,. Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng tái chiếm Tĩnh Hải quân. Lưu Cung cũng than rằng cái tên "Cung" của ông là xấu.
Ngô Quyền lên ngôi vua ở Tĩnh Hải quân vào ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 2 năm 939). Ngô Quyền xưng là Ngô Vương, xây dựng nhà nước tự chủ cho người Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương.
Cùng năm 939, Triệu Quang Duệ chỉ ra rằng Nam Hán và Sở chưa gửi sứ giả qua lại từ sau khi Mã hoàng hậu qua đời, và hai nước là thân lân cựu hảo, không thể để mất; tiến cử Gián nghị đại phu Lý Thư (李紓) làm sứ giả. Lưu Cung đồng ý, và sau khi Lý Thư đến Sở, vua Sở là Mã Hy Phạm cũng khiển sứ sang Nam Hán, tái lập quan hệ giữa hai nước. Mặc dù vậy, vào năm 941, Lưu Cung khiển sứ đến triều đình nhà Hậu Tấn ở Trung Nguyên, đề nghị cùng chiếm Sở rồi chia nhau lãnh thổ, song Hoàng đế Trung Nguyên là Thạch Kính Đường từ chối. Cùng năm 941 Lưu Cung chính thức đổi tên thành Lưu Nghiễm.
Năm 942, Lưu Nghiễm lâm bệnh phải nằm trên giường, ông nhận thấy Tần vương Lưu Hoằng Độ và Tấn vương Lưu Hoằng Hy đều kiêu ngạo và phóng túng, còn Việt vương Lưu Hoằng Xương (劉弘昌) là người hiếu cẩn và có trí thức. Do đó ông cùng Hữu bộc xạ kiêm Tây ngự viện sứ Vương Lân (王翷) định để Lưu Hoằng Độ đi trấn thủ Ung châu, Lưu Hoằng Hy đi trấn thủ Dung châu và lập Lưu Hoằng Xương làm người kế vị. Tuy nhiên, Tiêu Ích lại thuyết phục ông rằng nếu không lập đích làm trưởng thì tất loạn, do vậy Lưu Nghiễm ngừng tiến hành kế hoạch. Ngày Đinh Sửu tháng 4 âm lịch năm 942, Lưu Nghiễm qua đời, thọ 54 tuổi. Lưu Hoằng Độ kế vị, tức Nam Hán Thương Đế.
Lưu Nghiễm được mai táng ở Khang Lăng (nay thuộc Phiên Ngung, Quảng Châu), đường vào lăng mộ của ông được đổ bằng thép.
Nhận xét
Tư trị thông giám, tổng kết nhận định từ các nguồn khác, nhận xét về triều đại của Lưu Nghiễm:
Con cái
Sử không chép Lưu Nghiễm có bao nhiêu con và tên những người con gái. Tân Ngũ Đại sử có chép vào năm 932, Lưu Nghiễm phong vương cho 19 người con trai của mình là: