✨Hán Linh Đế

Hán Linh Đế

Hán Linh Đế (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy Lưu Hoành (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tại vị từ năm 168 đến năm 189, tổng 22 năm.

Dưới thời đại của Hán Linh Đế, nền chính trị nhà Hán tiếp tục rơi vào khủng hoảng. Bên cạnh các thế lực ngoại thích cùng hoạn quan đối chọi nhau, thời kỳ Hán Linh Đế còn phải trải qua Khởi nghĩa Khăn Vàng có quy mô rất lớn. Dù Đại tướng quân Hà Tiến thành công bình định cuộc phản loạn này, song cơ bản đã khiến Đông Hán bước đến thời kỳ cáo chung.

Thời đại Linh Đế trị vì đã chứng kiến một sự thối nát cùng cực của chính quyền, khi hoạn quan thao túng, ngoại thích họ Đổng của mẹ ông là Hiếu Nhân Đổng hậu vơ vét tiền tài, còn công khai "mua quan bán chức" có quy mô cấp triều đình. Thời của ông thường được gộp với người đời trước là Hán Hoàn Đế, được gọi là Hoàn Linh (桓靈), một chuỗi thời kỳ được xem là đen tối cùng cực của Đông Hán. Thừa tướng nhà Thục Hán là Gia Cát Lượng khi viết Xuất sư biểu, đã phải thốt lên: _"Thở dài thống hận với Hoàn, Linh"_, cũng phần nào cho thấy sự thối rữa cùng cực của nhà Hán được các sĩ nhân phù Hán như Gia Cát Lượng nhận định đều từ hai đời Hoàn Đế và Linh Đế vậy.

Thân thế

Lưu Hoành sinh năm Vĩnh Thọ thứ 2 (156) thời Hán Hoàn Đế. Thân phụ là Giải Độc Đình hầu Lưu Trường (劉萇) - cháu 4 đời của Hán Chương Đế, được phong tước Giải Độc Đình hầu tại đất Hà Giang quốc, khu vực thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay. Thân mẫu là Đổng phu nhân, cũng là người Hà Giang. Hán Chương Đế có người con thứ là Lưu Khai (劉開), Lưu Khai sinh Lưu Thục (劉淑), Lưu Thục sinh Lưu Trường, Lưu Trường sinh Lưu Hoành. Sau khi Lưu Trường qua đời, Lưu Hoành nối cha làm Giải Độc đình hầu.

Năm Vĩnh Khang nguyên niên (167), mùa đông, ngày 28 tháng 12, Hán Hoàn Đế băng hà. Ngày hôm sau, Đậu hoàng hậu trở thành Hoàng thái hậu. Khi ấy Hán Hoàn Đế qua đời mà không có con, nên Đậu Thái hậu tiến hành chọn người kế vị. Cha của Thái hậu là Thành môn Giáo úy Đậu Vũ hỏi Ngự sử người Hà Giang tên Lưu Thúc, dò hỏi xem trong Hà Giang có ai ưu tú, thì Thúc tiến cử Giải Độc đình hầu Lưu Hoành. Đậu Vũ vào cung báo lên Thái hậu.

Năm Kiến Ninh nguyên niên (168), tháng giêng, Đậu Thái hậu sai Tào Tiết cầm Phù tiết, dùng Hoàng môn Hổ bí Vũ Lâm quân hơn 1.000 người đưa xa giá đi đến Hà Giang quốc để rước Giải Độc Đình hầu Lưu Hoành nhập cung. Sang ngày 21 tháng 1 (tức ngày 17 tháng 2 dương lịch), Giải Độc Đình hầu Lưu Hoành mới 12 tuổi nối ngôi, sử gọi Hán Linh Đế. Đậu Thái hậu phong Thành môn Giáo úy Đậu Vũ làm Đại tướng quân, cùng Thái phó Trần Phồn và Tư đồ Hồ Quảng (鬍廣) cùng làm phụ chính cho Hán Linh Đế.

Sau đó, Linh Đế cho truy tôn cha là Lưu Trường làm Hiếu Nhân hoàng (孝仁皇), lăng tẩm là Thận lăng; còn mẹ Đổng phu nhân thành Thận Viên Quý nhân (慎園貴人) theo cựu lệ của nhà Hán.

Cai trị

Hoạn quan trừ ngoại thích

Sau khi nắm đại quyền, Đậu Vũ và Trần Phồn đều muốn cố gắng khôi phục lại trật tự của nhà Hán, tiêu diệt sạch quyền lực của các hoạn quan. Hai người khôi phục lại tước vị của những nạn nhân bị các hoạn quan buộc tội trước đây, biến họ thành thế lực chống lại hoạn quan.

Năm Kiến Ninh nguyên niên (168), Đậu Vũ và Trần Phồn lên kế hoạch trừ khử các hoạn quan do Vương Phủ (王甫) cùng Tào Tiết cầm đầu. Trần Phồn nói:"Trung thường thị Tào Tiết, Vương Phủ khi hầu cận Tiên đế đã làm dấy động chính sự quốc gia, chướng khí mù mịt, bá tánh hỗn loạn, tội họa chính là bọn họ. Hiện tại không giết bọn chúng, đại sự không thành". Đậu Vũ phi thường tán thành, sau đó sắp đặt các thân tín là Thượng thư lệnh Doãn Huân (尹勋), Thị trung Lưu Du (刘瑜), lại mời Thái thú Việt Tây là Tuân Dực (荀翌) làm Tòng sự Trung lang, người Dĩnh Xuyên là Trần Thực làm Duyện thuộc, đồng thương định kế sách, văn sĩ khắp thiên hạ không ai là không phấn chấn. Đậu Vũ từng bàn định kế hoạch với Đậu Thái hậu, nhưng Thái hậu mãi không hề quyết, sự việc cứ bị trì kéo mãi.

Tháng 8, sao Thái Bạch xuất hiện, Lưu Du viết thư cho Trần Phồn cùng Đậu Vũ, khuyên răn đại sự không thể đợi được nữa. Thế là Đậu Vũ dùng quyền thủ phụ ra lệnh bãi miễn Hoàng môn lệnh Ngụy Bưu (魏彪), lấy người của mình là Tiểu hoàng môn Sơn Băng (山冰) thay thế, lại bắt giam Trường Lạc Thượng thư Trịnh Táp (郑飒) vốn là kẻ giảo hoạt vào Bắc ngục. Trần Phồn khuyên nên giết Trịnh Táp, nhưng Đậu Vũ không nghe, lệnh Sơn Băng cùng Doãn Huân thẩm vấn, lời khai khai ra Tào Tiết cùng Vương Phủ, thế là lại tra khảo Tào, Vương trong ngục.

Hoạn quan Chu Vũ (朱瑀) là người được phong làm Tư lệ Giáo úy (司隶校尉), nhìn lén tấu chương phát hiện kế hoạch Trần Phồn cùng Đậu Vũ lên kế hoạch giết toàn bộ hoạn quan, Vũ tri hô:""Hoạn quan phóng túng phi pháp đương nhiên có thể sát. Ta có tội gì? Vì lý gì phải cũng bị diệt tộc?", thế là Chu Vũ lên một âm mưu với 17 hoạn quan khác để phát động chính biến chống Trần Phồn và Đậu Vũ. Tào Tiết cùng các hoạn quan khác vào tẩm cung bắt cóc Hán Linh Đế, bàn mưu cùng nhau làm ra một chiếu chỉ giả, bổ nhiệm Trường lạc thực giám Vương Phủ làm Hoàng môn lệnh (黄门令), mang quân giết Doãn Huân cùng Sơn Băng để giải cứu Trịnh Táp, sau đó họ vào cung bắt cóc Đậu Thái hậu để đoạt tỉ thụ, ban hành chiếu lệnh sai Trịnh Táp cấm Tiết phù để bắt Đậu Vũ. Biết sự việc đại họa, Đậu Vũ giết chết sứ giả, chỉ huy mấy ngàn quân đóng ở Đô Đình (thuộc Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc), giao chiến ác liệt với quân Hổ bôn và quân Vũ lâm của Vương Phủ, nhưng cuối cùng ông bị thua trận và buộc phải tự sát. Trần Phồn cũng tham chiến và bị bắt giết.

Sau đó, Đậu Vũ cùng Trần Phồn bị bêu đầu ở kinh thành Lạc Dương, gia đình ông bị lưu đày đến quận Nhật Nam (thuộc Trung Bộ Việt Nam hiện nay), những người trong họ và tân khách bị giết chết. Đậu Thái hậu bị buộc phải rút lui khỏi vai trò nhiếp chính và bị quản thúc ở Nam Cung, tức Trường Lạc cung.

Hỏng chính sự

Năm Kiến Ninh thứ 2 (169), Đậu Thái hậu sau sự kiện trên thì rút vào hậu cung. Hoàng quyền có biến, Hán Linh Đế nhân đó bèn cho người đón mẹ ruột là Đổng phu nhân vào cung, tôn xưng Hiếu Nhân hoàng hậu (孝仁皇后). Cháu trai trong họ của Đổng hậu là Đổng Trọng (董重) được vào triều làm Phiêu kỵ tướng quân (骠骑将军).

Năm đó, Đốc bưu của quận Sơn Dương là Trương Kiệm (张俭) buộc tội Trung thường thị Hầu Lãm (侯览) nhân danh về quê tảo mộ cho mẹ, đã phô trương thanh thế, quấy nhiễu dân chúng. Điều này chọc giận Hầu Lãm, thế là Hầu Lãm liên kết với người trong đảng phái của mình thượng thư buộc tội Trương Kiệm cùng 24 vị danh sĩ khác kết bè kéo đảng, gây họa chính trị. Khi Linh Đế nhìn thấy tấu chương, hỏi thân tín Tào Tiết, và Tào Tiết phụ họa theo Hầu Lãm, rốt cuộc khiến Linh Đế phê duyệt. Cuối cùng đòn đánh chính trị này của Hầu Lãm đã diễn ra một đợt càn quét đảng người sĩ phu, người đào vong, người bị bắt rồi giết lên đến 700 người. Đây gọi là Đảng cố chi họa (党锢之祸) lần thứ hai của thời Đông Hán, lần thứ nhất diễn ra vào năm Vĩnh Khang (167) thời Hán Hoàn Đế.

Trong thời gian Linh Đế tại vị, hoàng quyền suy yếu do các hoạn quan đều nắm hết mấu chốt chính trị. Sau khi họ Đậu bị diệt, đã hình thành nên 10 thế lực hoạn quan mạnh nhất đương thời. Trong đó có: Trương Nhượng, Triệu Trung, Tào Tiết, Phong Tư, Đoàn Khuê, Hầu Lãm, Quách Thắng, Kiển Thạc, Hạ Huy, Trình Khoáng; đương thời gọi là Thập thường thị (十常侍). Thời kỳ Linh Đế trị vì là thời gian mà hoạn quan đời Hán nắm chính quyền lâu nhất trong lịch sử. Thời kỳ đầu, Vương Phủ cùng Tào Tiết là hai hoạn quan thân tín nhất của Linh Đế, sau đó Vương Phủ bị Dương Cầu (阳球) hại chết, Tào Tiết chết già, thì đến Trương Nhượng nổi lên, Linh Đế kính trọng Trương Nhượng xem như cha đẻ vậy.

Linh Đế từ nhỏ bị bao vây bởi các thế lực, lớn lên cũng bị đánh giá là kém về khả năng chính trị. Sau nhiều đợt thanh trừng của ngoại thích và hoạn quan, Linh Đế không chăm lo triều chính nữa mà chỉ đam mê tửu sắc và hưởng lạc. Long xa ông dùng không lấy ngựa kéo mà thay bằng lừa kéo, tung hoành khắp nơi mà không có quy củ. Vì chán cảnh sống nhàm trong cung, ông sai các cung nữ mở quán trọ trong cấm thành, còn mình đóng vai khách vào ngủ trọ. Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu và những người trong hoàng tộc cũng ăn chơi xa xỉ, đã giục con bán quan chức thu tiền. Năm Quang Hòa nguyên niên (178), ông cho áp dụng chính sách mua bán quan chức: chức Tam công bán 10 triệu, tước Hầu bán 5 triệu. Tào Tung, cha của Tào Tháo đã bỏ tiền ra mua được chức Thái úy trong dịp này.

Qua đời

Vào lúc này các hoàng tử lớn lên, Hán Linh Đế cần quyết định chọn ngôi vị Thái tử. Lưu Biện là con trai của Hà hoàng hậu, lại là con trưởng, nhưng Hán Linh Đế thấy đứa con này không đủ trí tuệ, không thể làm Tự quân, mà rất thích Lưu Hiệp là con của Vương mỹ nhân quá cố. Tuy vậy, Linh Đế khi ấy đang sủng ái Hà hậu, lại có anh trai của Hà hậu là Hà Tiến nhậm chức Đại tướng quân, quyền lực rất lớn, nên Hán Linh Đế chần chừ không quyết.

Năm Trung Bình thứ 6 (189), Hán Linh Đế hấp hối. Trước khi qua đời, Linh Đế giao phó Lưu Hiệp cho Thượng quân Giáo úy Kiển Thạc (蹇硕), hòng hi vọng Lưu Hiệp có thể kế thừa Hoàng vị. Cùng năm, ngày 11 tháng 4 (tức ngày 13 tháng 5 dương lịch), ông băng hà tại Gia Đức điện (嘉德殿) ở Nam Cung, hưởng dương 33 tuổi, tại ngôi 22 năm, thụy hiệu là Hiếu Linh hoàng đế (孝靈皇帝). Ngày 17 tháng 6 (tức ngày 17 tháng 7 dương lịch), ông được an táng vào Văn Lăng (文陵).

Kiển Thạc muốn giết Hà Tiến trước để đoạt quyền, nên cho mời Hà Tiến vào hậu cung. Khi ấy, Tư mã Phan Ẩn (潘隐) thông đồng Hà Tiến, ra hiệu cho Hà Tiến biết mối nguy, nên Hà Tiến trở về đại doanh củng cố lực lượng. Sự việc này là tiền đề để Hoàng tử Biện lên ngôi. Hai ngày sau khi Linh Đế băng hà, Hoàng tử Lưu Biện ở trước linh cữu của Linh Đế đăng cơ, năm ấy 14 tuổi, tức Hán Thiếu Đế. Tháng 8 năm ấy, Lưu Biện bị Đổng Trác phế, con thứ Lưu Hiệp kế vị, tức Hán Hiến Đế.

Niên hiệu

Trong thời gian ở ngôi, Hán Linh Đế dùng các niên hiệu: Kiến Ninh (建寧; 168 – 172) Hy Bình (熹平; 172 – 178) Quang Hòa (光和; 178-184) Trung Bình (中平; 184-189)

Gia đình

  • Thân phụ: Giải Độc Đình hầu Lưu Trường [劉萇], thụy Hiếu Nhân hoàng (孝仁皇).

  • Thân mẫu: Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu.

  • Hậu phi:

    Tống hoàng hậu, bị phế.

    Linh Tư Hà Hoàng hậu, mẹ của Lưu Biện.

    Vương Vinh, mẹ của Lưu Hiệp, sau được truy tôn Linh Hoài hoàng hậu.

  • Hậu duệ:

    Hán Thiếu Đế Lưu Biện [劉辯].

    Hán Hiến Đế Lưu Hiệp [劉協].

    Vạn Niên công chúa [萬年公主].

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Đổng quý nhân** (chữ Hán: 董貴人, ? - 200) là một phi tần của Hán Hiến Đế Lưu Hiệp và là con gái của Đổng Thừa, một viên quan được coi là trung thần nhà
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Linh Đế** (chữ Hán: 靈帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Đông Hán Linh Đế (gọi tắt theo thụy hiệu thật là Hiếu Linh Đế) * Ngũ Hồ
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Ai Đế** (chữ Hán: 漢哀帝; 26 TCN – 1 TCN) tên thật là **Lưu Hân** (劉欣) là vị Hoàng đế thứ 13 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Nguyên Đế** (_chữ Hán_:漢元帝) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Hán Nguyên Đế Lưu Thích, gọi tắt theo thụy hiệu thật là Hiếu Nguyên Đế, vị Hoàng đế
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Hàn Toại** (chữ Hán: 韩遂; ?–215), tự **Văn Ước** (文約), là một lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở vùng Lương châu vào đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một
TRÀ SÂM HÁN LINH HỘP 100 GÓITRÀ SÂM HÁN LINH là sản phẩm trà ca.o c.ấp đến từ đất nước Hàn Quốc với hương vị độc đáo từ nhân sâm. Trà sâm Hàn Quốc được
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
**Lưu Đào** (chữ Hán: 刘陶, ? – 185?), tên khác là Lưu Vĩ, tự Tử Kỳ, hộ tịch ở huyện Dĩnh Âm, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán. Ông vì chống
. THÀNH PHẦN:☘. Cao thiên môn đông 300mg☘. cao sơn thù du 250mg☘. cao hoàng kỳ 250mg☘. Taurine 150mg☘. Magie 6mg☘. phụ liệu vừa đủ====================================================== CÔNG DỤNG:✔. Dưỡng âm, chỉ hãn, hỗ trợ làm giảm
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Trương Dương** (chữ Hán: 張楊; (151-201) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia cuộc chiến giữa các chư hầu trước khi hình thành cục diện Tam Quốc. ## Chống
**Hiếu Linh Đế** (_chữ Hán_ 孝靈帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ ở phương đông. ## Danh sách *Đại Hòa quốc Hiếu Linh thiên hoàng *Đông Hán Hiếu Linh Đế (thường gọi
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Vũ Linh Đế** (_chữ Hán_:武靈帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc: ## Danh sách * Kim Vũ Linh Đế (có thụy hiệu khác là
**Mã Mật Đê** (, ?-194), thường phiên âm là **Mã Nhật Đê**, tự **Thúc Ông** (翁叔), là đại thần cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Mã Mật Đê quê
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
NẤM LINH CHI HÀN QUỐC HỘP QUÀ CÔ GÁI 1KGShop cam kết bán hàng chuẩn, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.NẤM LINH CHI HỘP QUÀ CÔ GÁI HÀN QUỐC 1KGSản phẩm hộp quà biếu nấm
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
Sức khỏe con người vô cùng quan trọng bởi nó quyết định sự tồn tại của chúng ta. Vậy nên bổ sung dinh dưỡng, nhằm tăng cường sức khỏe chính là giải pháp giúp bạn
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Triệu Trung** (chữ Hán: 趙忠; ? - 189) là hoạn quan nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc và một trong mười quan thường thị. Ông dự triều chính từ thời Hán Hoàn Đế
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc** đã phát triển ngoạn mục trong vài thập kỷ qua. Theo thống kê năm 2007 của chính phủ Hoa Kỳ, gần một phần ba (26,3%) dân số Hàn Quốc
Năm 315 **Hán Triệu** (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**