✨Hán Văn Đế

Hán Văn Đế

Hán Văn Đế (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là Lưu Hằng (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 180 TCN đến năm 157 TCN, tổng cộng gần 23 năm.

Sau khi Lã thái hậu chết, các đại thần Trần Bình và Chu Bột đã trừ khử các thân tính của họ Lã và phế truất cháu bà là Hán Hậu Thiếu Đế. Trong tình thế không có ai làm Hoàng đế, Trần và Chu quyết định phò tá Lưu Hằng, khi đó đang là vua chư hầu nước Đại. Bởi lẽ theo họ, mẹ ông là Bạc Cơ nổi tiếng hiền đức và quan trọng hơn là bà không có một gia thế quyền quý, không lập lại sự chuyên quyền của Lã hậu như trước.

Văn Đế được đánh giá cao trong sử sách Trung Quốc, nổi tiếng là một minh quân, thiết lập và cai trị quốc gia Đại Hán trở nên thái bình thịnh trị sau nhiều năm biến động. Ông nổi tiếng với các biện pháp tiết kiệm, giảm nhẹ hình phạt, tô thuế, và bị ảnh hưởng nhất định bởi vợ ông là Đậu hoàng hậu, một người theo học thuyết Đạo giáo.

Triều đại của ông cùng con trai ông Hán Cảnh Đế Lưu Khải được xưng là Văn Cảnh chi trị (文景之治), tạo nền tảng chắc chắn dưới thời đại của cháu nội ông là Hán Vũ Đế.

Thân thế

Hán Văn Đế Lưu Hằng sinh khoảng năm 202 TCN, là con thứ tư của Hán Cao Tổ Lưu Bang, mẹ ông là Bạc phu nhân, người đất Ngô. Cha Bạc thị mất từ thời nhà Tần, mẹ - bà ngoại của Lưu Hằng - là Ngụy Ổn (魏媼). Khi Trần Thắng khởi nghĩa chống nhà Tần, các chư hầu tự lập để hưởng ứng, trong đó có nước Ngụy. Bạc thị được mẹ đưa vào cung hầu Ngụy vương Báo, được gọi là Bạc Cơ.

Nhà Tần mất, Hán và Sở tranh giành thiên hạ. Ngụy Báo vốn theo Hán, thấy Sở mạnh lại theo Sở. Năm 205 TCN, Lưu Bang sai Hàn Tín và Tào Tham đi đánh Ngụy, bắt sống Ngụy Báo mang về Vinh Dương, còn Bạc Cơ bị đưa đi dệt vải trong cung của Hán vương.

Một hôm Lưu Bang đến thăm chỗ những người dệt vải, trông thấy Bạc Cơ xinh đẹp bèn gọi vào hầu. Không lâu sau, Bạc Cơ có mang và sinh ra Lưu Hằng năm 202 TCN. Năm đó Lưu Bang diệt được Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, thống nhất thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế.

Đại vương

Hán vương Lưu Bang đăng ngôi Hoàng đế, tức Hán Cao Tổ. Ông lần lượt tiêu diệt các công thần khai quốc là vua các nước chư hầu để phong cho các hoàng tử nhằm có thêm vây cánh củng cố quyền lực của nhà Hán.

Năm 196 TCN, Cao Tổ bình định xong quân làm phản Trần Hy ở nước Đại phía bắc, tiếp giáp với Hung Nô, bèn quyết định lập Lưu Hằng – khi đó lên 6 tuổi – làm Đại vương (代王), đóng đô ở Tấn Dương (晉陽; hiện nay là Thái Nguyên, Sơn Tây).

Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ qua đời, anh khác mẹ của Lưu Hằng là Thái tử Doanh lên ngôi, tức là Hán Huệ Đế. Quyền hành của nhà Hán nằm trong tay Hoàng hậu của Cao Tổ hoàng đế là Lã hậu, lúc đó trở thành Hoàng thái hậu. Lã thái hậu ghét Thích phu nhân là mẹ Triệu vương Lưu Như Ý vì được Cao Tổ sủng ái nên ra lệnh giết Thích phu nhân rất tàn bạo. Nhiều cung nữ được Cao Tổ sủng ái cũng bị giam trong cung. Bạc Cơ xin đi lên nước Đại với con, Lã thái hậu thấy Bạc Cơ chưa từng làm mất lòng mình nên bằng lòng cho Bạc Cơ đi. Bạc Cơ trở thành thái hậu nước Đại.

Lã thái hậu nắm trọn quyền hành, thao túng triều đình. Hán Huệ Đế không có thực quyền, không điều hành được triều chính nên chán nản, sa vào tửu sắc. Được 7 năm thì Huệ Đế qua đời (188 TCN). Vì hoàng hậu của Huệ Đế không có con nên Lã thái hậu lấy con của một cung nữ vào làm Thái tử, lập lên ngôi, gọi là Hán Tiền Thiếu Đế. Sau đó, Lã thái hậu bức hại nhiều hoàng tử con của Cao Tổ như Lưu Như Ý, Lưu Hiển, Lưu Khôi, thay vào đó là con cháu họ Lã.

Năm 182 TCN, Lã thái hậu sau khi giết Triệu vương thứ 3 là Lưu Khôi bèn sai sứ giả nói với Đại vương Lưu Hằng, muốn đưa ông về làm Triệu vương. Lưu Hằng thấy ba người anh em lần lượt bị giết ở nước Triệu nên từ tạ Lã thái hậu, xin giữ vùng biên cương phía bắc. Do đó Lã thái hậu lập cháu mình là Lã Lộc làm Triệu vương. Tới lúc này, các con của Hán Cao Tổ đều đã qua đời hoặc bị hại chết, chỉ còn Đại vương Lưu Hằng và Hoài Nam vương Lưu Trường còn nhỏ là chưa bị động đến.

Lên ngôi

Tháng 8 năm 180 TCN, Lã thái hậu qua đời. Tháng 9 năm đó, Thừa tướng Trần Bình và Giáng hầu Chu Bột làm binh biến giết hết các chư hầu và tướng quân của họ Lã; đồng thời giết luôn Hán Hậu Thiếu đế Lưu Hồng do Lữ thái hậu lập lên ngôi để thao túng.

Chư hầu và các quan đại thần bàn mưu với nhau rằng: :Thiếu đế không phải là con của vua Huệ Đế. Nay chúng ta đã giết hết họ Lã mà lại để người họ lập lên, đến khi lớn Thiếu Đế cầm quyền thì chúng ta sẽ mất nòi. Không bằng xem trong các vương người nào tài giỏi nhất thì ta lập lên.

Có người bàn Tề vương là cháu đích tôn của Cao Tổ, nhưng các quan đại thần đều nói: :Họ Lữ là họ ngoại của nhà vua nhưng độc ác nên đã suýt nữa làm nguy đến tôn miếu, làm loạn các công thần. Nay trong gia đình mẹ Tề vương có Tứ Quân, Tứ Quân là người ác. Nếu lập Tề vương thì lại trở thành họ Lã mất.

Mọi người muốn lập Hoài Nam vương Lưu Trường nhưng lại cho là ít tuổi, nhà bên mẹ lại ác. Sau một hồi bàn bạc, có ý kiến cho rằng: :Đại vương Lưu Hằng là người con lớn nhất trong số những người con của Cao Tổ còn sống. Người nhân đức, có hiếu, rộng rãi, trung hậu. Gia đình thái hậu họ Bạc lại chăm chỉ và tốt. Vả lại chúng ta lập người con lớn hơn cả cho nên hợp lẽ.

Các quan bèn sai người mời Lưu Hằng. Đại vương sai người từ tạ. Sứ giả đi về hai lần. Ông bèn mang việc ra bàn với thủ hạ. Trương Vũ can không nên về vì Trần Bình và Chu Bột đều là cựu thần và nhiều mưu mô; nhưng Tống Xương phân tích nên trở về vì cơ nghiệp họ Lưu. Sau khi bẩm lại với Bạc thái hậu, cuối cùng Đại vương nhận lời lên xe về Trường An.

Các quan cùng ra đón, dâng ngọc tỷ truyền quốc lên và tôn ông làm thiên tử ở cầu Vị Kiều. Lưu Hằng không vội vã nhận mà lệnh cho mọi người về đến cung Đại mới bàn việc nước. Khi vào cung, các quan do Trần Bình, Chu Bột đứng đầu cùng long trọng tâu trình và tôn ông làm thiên tử. Lưu Hằng bèn chính thức làm lễ lên ngôi.

Lưu Hằng làm Đại vương 16 năm thì lên ngôi Hoàng đế (180 TCN), tức là Hán Văn Đế. Lúc này ông 23 tuổi.

Cai trị

Chính sách nông nghiệp

Hán Văn đế phong Trần Bình làm Tả thừa tướng, Chu Bột làm Hữu thừa tướng, Quán Anh làm Thái uý, Tống Xương làm Vệ tướng quân thống lĩnh quân đội bắc nam.

Liền sau đó, Hán Văn Đế hạ lệnh cho các quận tiến cử người tài, nhờ vậy thu nạp được các nhân tài như Giả Nghị, Tiều Thác. Ông chú trọng xây dựng cơ nghiệp của cha để lại. Năm 178 TCN, theo lời kiến nghị của Giả Nghị, nên khuyến khích phát triển nông nghiệp, ông hạ chiếu khuyến nông cày cấy.

Ông hạ lệnh phục hồi lại chế độ tịch điền. Trước vụ xuân, ông đích thân tham gia việc đồng áng để làm gương cho thiên hạ. Tự tay ông cùng các chư hầu cầm cuốc ra đồng làm "Tịch lễ". Tịch lễ vốn có từ thời Tây Chu, từ thời Xuân Thu do chiến tranh liên miên nên các triều vua bỏ bễ việc này; Văn Đế đã khôi phục lễ đó để mọi người noi theo.

Với những quan lại sao nhãng chức trách đôn đốc dân làm nông, Văn đế xuống chiếu khuyến nông và khiển trách vào năm 168 TCN. Ông lệnh cho các quan phải sát sao với nghề nông, nơi nào thiếu giống và thiếu lương thì cấp phát. Những nơi gặp thiên tai đều được cứu tế. Nhờ chính sách khuyến nông, sản lượng lúa hằng năm đều tăng.

Chính sách thuế và lao dịch

Hán Văn đế là vị vua chú trọng việc giảm nhẹ thuế khoá và lao dịch cho nhân dân. Năm 178 TCN, ông ra chiếu cho các châu quận giảm thuế, giảm việc làm lao dịch. Năm 177 TCN, Văn Đế cho dân Tấn Dương (Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay) và Trung Đô được miễn thuế trong 3 năm.

Đến năm 168 TCN, ông lại ra chiếu chỉ thu nửa số thuế. Trước thời Văn đế, số thuế thu là 1/15 tổng sản lượng thu hoạch, tới lúc đó giảm đi một nửa tức là chỉ thu 1/30 sản lượng, giảm vài chục lần so với thời nhà Tần. Nhờ chính sách phát triển nông nghiệp, mùa màng bội thu nên việc giảm thuế cũng không làm vơi ngân khố. Sang năm 167 TCN, ông lại hạ lệnh cho dân được miễn trừ thuế ruộng cả năm. Đây là trường hợp ít có trong lịch sử Trung Quốc.

Pháp luật

Về hình phạt, Hán Văn đế cũng hướng đến việc nương nhẹ cho dân chúng. Các quan bàn với ông rằng phải có pháp luật thật nặng mới có thể răn đe dân không phạm tội và không nên sửa đổi pháp luật của đời trước để lại. Tuy nhiên Văn Đế không tán thành. Ông cho rằng:

Ông quyết định bỏ hình phạt tàn khốc, bỏ nhục hình (cắt thân thể), lấy lao dịch hoặc si hình (đánh roi) để thay. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc này không hẳn là tích cực. Trên thực tế, bỏ nhục hình thay bằng đánh roi cũng gây tác hại. Có người lẽ ra bị cắt ngón chân, ngón tay nhưng vì xử si hình, phải đánh 300 roi hoặc 500 roi nên không chịu nổi và chết. Vì vậy Hán Thư cho rằng: "Những tưởng giảm nhẹ hình phạt nhưng thực chất là giết người!". Các nhà sử học Trung Quốc cho rằng bản chất ý định của Văn đế là tốt và có nhiều người ủng hộ; việc ban hành luật và người thực hiện có khoảng cách nhất định. Ngoài việc đề ra luật, Hán Văn đế cũng là người biết tuân thủ pháp luật.

Chính sách đối ngoại

Với Hung Nô

Từ thời Chiến Quốc và thời Tần, Hung Nô đã hay gây hấn với Trung Quốc. Hán Cao Tổ đã cùng chính sách hoà hoãn để giữ biên giới phía bắc. Văn đế tiếp tục duy trì chính sách đó.

Một mặt, ông dùng chính sách cầu thân với Hung Nô để tránh động binh. Mặt khác, ông tăng cường binh lực và sẵn sàng đối phó khi Hung Nô phạm giao ước. Ông điều 85.000 quân lên Cáo Nô, cử Dĩnh Âm hầu Quán Anh làm chỉ huy khiến quân Hung Nô phải rút ra khỏi biên ải.

Sau đó ông bổ nhiệm thêm Chu Xá làm Vệ tướng quân, Trương Vũ làm Xa kỵ tướng quân đóng ở quanh sông Vị với vài chục vạn quân. Khi Hung Nô lại xâm phạm, ông sai Trương Tương Như, Đổng Xích và Loan Bố làm tướng đi đánh, đuổi được Hung Nô ra ngoài biên giới.

Văn đế chủ trương đưa quân lên phòng thủ và chỉ ra quân khi địch phạm vào cõi; ông không huy động đông người để phát động chiến tranh làm nhọc sức dân.

Với Nam Việt

Triệu Đà là tướng nhà Tần, nhân thời Hán Sở tranh hùng đã cát cứ ở Bách Việt, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương. Thời Hán Cao Tổ, Triệu Đà đã thần phục. Đến thời Lã hậu, vì năm 184 TCN Lã Hậu sai tướng đi đánh Nam Việt, Triệu Đà bèn mang quân chống lại, đánh bại quân Hán. Nhân đó, Triệu Đà đánh luôn lên quận Trường Sa của nhà Hán, đánh phá xong mới lui binh và xưng làm Nam Việt Vũ Đế, nhà Hán không làm gì được.

Hán Văn Đế chủ trương không dùng vũ lực với Nam Việt mà tìm cách vỗ về. Biết mồ mả tổ tiên Triệu Đà ở Chân Định, ông sai người đến trông coi mồ mả cho tổ tiên Triệu Đà, một năm 4 lần tế lễ trọng thể, lại phong quan tước cho chú bác, anh em Triệu Đà.

Nhân Lục Giả là người từng đi sứ Nam Việt thời Hán Cao Tổ, ông sai Lục Giả đi sứ Nam Việt lần nữa để thuyết phục Triệu Đà thần phục nhà Hán như trước. Trong thư gửi Triệu Đà, ông viết:

Triệu Đà đọc thư của ông rất cảm động, đồng ý từ bỏ đế hiệu, xưng thần với nhà Hán như trước.

Chính sách với các chư hầu

:Xem thêm: Lưu Trường

Từ thời Hán Cao Tổ, việc đối phó với các chư hầu trở thành vấn đề khiến thiên tử phải lo lắng vì thế lực các chư hầu rất mạnh. Sau khi lên ngôi, Hán Văn đế khôi phục lại ngôi chư hầu Tề, Triệu, Sở cho người trong họ để đáp lại sự ủng hộ của họ trong cuộc binh biến chống họ Lã. Tuy nhiên, ông vẫn phải đối mặt với nguy cơ phản loạn từ họ.

Năm 177 TCN, Tế Bắc vương Lưu Hưng Cư cậy công đánh họ Lã, dấy binh làm phản, tiến quân về phía tây đánh Vinh Dương. Văn đế điều quân nhanh chóng đánh bại khiến Tế Bắc vương phải tự sát.

Hoài Nam vương Lưu Trường là người em còn lại của Văn đế không biết giữ lễ phép; Văn đế nhiều lần tha tội nhưng Trường không sửa đổi, vẫn phạm điều cấm, gọi vua bằng "anh", ngồi trộm xe vua. Vì có tư thù với Thẩm Tự Cơ Lưu Trường tự ý giết chết Tự Cơ. Trước sự ngang tàng của Trường, Văn đế chỉ xuống chiếu khiển trách, nhờ cậu là Bạc Chiêu khuyên bảo. Lưu Trường không nghe, lại có ý coi thường nhà vua. Năm 174 TCN, Trường đồng mưu với một số người, lại câu kết với Hung Nô và Mân Việt để làm phản. Âm mưu bị bại lộ, Trường bị phế truất và đày ra Nghiêm Đạo. Trên đường áp giải, Trường tự sát.

Trước vấn đề chư hầu, Văn đế theo đề nghị của Giả Nghị trong bản "Sách lược trị an". Dù lúc Giả Nghị còn sống, kiến nghị không được thực thi nhưng sau khi Nghị mất, Văn đế đã áp dụng. Năm 164 TCN, nhân lúc Tề Văn vương (cháu đích tôn Hán Cao Đế) mất không có ai nối, ông chia nhỏ nước Tề làm 6 nước: Tề, Tế Bắc, Tế Nam, Giao Tây, Giao Đông, Tri Xuyên phong cho những người trong họ, còn quận Lang Nha thì lấy về triều đình. Với nước Hoài Nam, ông điều Hoài Nam vương Lưu Hỷ làm Thành Dương vương, chia Hoài Nam làm 3: Hoài Nam, Hành Sơn, Lư Giang.

Bước đầu Văn đế chia nhỏ lực lượng các chư hầu nhưng vẫn chưa triệt để. Dù sau đó Tiều Thác có kiến nghị làm yếu các chư hầu khác như Ngô, Sở nhưng Văn đế ngại động chạm và gây mâu thuẫn nên không chấp thuận.

Đề xướng tiết kiệm

Trong giai đoạn đầu, nhà Hán đang ở thời kỳ khôi phục kinh tế; tài chính và vật tư đều thiếu thốn. Trước bối cảnh đó, Hán Văn đế chi dùng rất tiết kiệm. Ông trở thành vị vua tiết kiệm nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

Sự ảnh hưởng

thumb|right|Một bức [[Ukiyo-e mô tả Hán Văn Đế nếm thuốc cho mẹ, vẽ bởi Utagawa Kuniyoshi]] Hán Văn Đế được biết đến không chỉ qua lịch sử Trung Quốc, mà còn đến Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam, được nhìn nhận là một trong những vị Hoàng đế đáng khen, hình mẫu của một vị Hoàng đế nhân từ và độ lượng. Thời kỳ trị vì của ông nổi tiếng với việc đề xuất tiết kiệm và gia giảm hình phạt đối với dân chúng. Thời đại của ông cùng con trai Hán Cảnh Đế, gọi là Văn Cảnh chi trị (文景之治), trở thành một trong những thời kỳ thịnh vượng và đức độ trong lịch sử.

Ngoài ra, Hán Văn Đế còn nổi tiếng bởi sự hiếu thảo, được liệt vào một trong Nhị thập tứ hiếu nổi tiếng trong văn hóa Trung Quốc. Chuyện kể rằng, vào một lần mẹ ông Bạc Cơ bị ốm, Văn Đế cứ hễ có thời gian là đều đến thăm mẹ. Ông đã tự mình nếm thử tất cả mọi loại thức ăn và thuốc dâng lên cho Bạc Cơ.

Gia đình

  • Thân phụ: Hán Cao Tổ Lưu Bang.

  • Thân mẫu: Bạc phu nhân (薄夫人, ? - 155 TCN), thường gọi Bạc Cơ (薄姬), người huyện Ngô, quận Cối Kê. Khi Văn Đế lên ngôi được tôn làm Hoàng thái hậu, rồi Hán Cảnh Đế tôn làm Thái hoàng thái hậu.

  • Hậu phi:

    Đại vương hậu (代王后), nguyên phối của Văn Đế khi còn ở nước Đại, sinh 4 người con đầu bị mất sớm. Sau khi qua đời, Văn Đế thương tiếc nên để trống ngôi Vương hậu, không lập kế thất mãi đến khi về Trường An đăng cơ Hoàng đế. Tuy là nguyên phối nhưng bà không được truy phong thụy hiệu Hoàng hậu.

    Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu (孝文竇皇后, 205 - 135 TCN), thiếp của Văn Đế khi còn ở nước Đại, sinh Quán Đào công chúa, Hán Cảnh Đế Lưu Khải và Lương vương Lưu Vũ. Sau trở thành Hoàng hậu duy nhất nhân dịp Lưu Khải được phong Hoàng thái tử.

    Thận phu nhân (慎夫人), thụ sủng, không con.

    Doãn phu nhân (尹夫人), thụ sủng, không con.

  • Hoàng tử:

    Bốn người con trai đầu do Đại Vương hậu sinh, mất từ khi còn nhỏ.

    Hán Cảnh Đế Lưu Khải (劉啟), mẹ là Hiếu Văn Đậu hoàng hậu.

    Lương Hiếu vương Lưu Vũ (梁孝王劉武, ? - 144 TCN), mẹ là Hiếu Văn Đậu hoàng hậu.

    Đại Hiếu vương Lưu Tham (代孝王劉參, ? - 162 TCN), mẹ không rõ.

    Lương Hoài vương Lưu Ấp (梁怀王劉揖, ? - 174 TCN), mẹ không rõ.

  • Hoàng nữ:

    Quán Đào công chúa (馆陶公主, ? - 116 TCN), tên Lưu Phiếu (劉嫖), hạ giá lấy Trần Ngọ (陈午).

    Xương Bình công chúa (昌平公主), hạ giá lấy con trai Chu Bột là Chu Thắng Chi (周勝之).

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Đại vương hậu** () là nguyên phối thê tử của Hán Văn Đế Lưu Hằng khi ông còn là **Đại vương** (代王) nước Đại (196 TCN - 180 TCN), nước chư hầu của nhà Hán.
**Hán Văn Đế** (_chữ Hán_:漢文帝) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách * Hán Văn Đế Lưu Hằng, Hoàng đế nhà Tây Hán, gọi tắt theo thụy hiệu gốc
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景薄皇后; ? - 147 TCN), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, vị Hoàng đế thứ sáu của Tây Hán trong
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
phải|thumb|[[Ô nhiễm nước là một vấn đề môi trường gây ảnh hưởng tới môi trường nước. Bức ảnh này cho thấy bọt nổi trên mặt sông New River khi nó đi vào Hoa Kỳ từ
Có rất nhiều **vấn đề môi trường ở Việt Nam**, một phần do hậu quả từ Chiến tranh Việt Nam, cũng như quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Việt Nam từ sau cuộc
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Văn Đế** (chữ Hán: 文帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách ### Trung Quốc # Thương Ân Vũ Chu Văn Đế (truy
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hàn Văn Tú** (tiếng Trung giản thể: 韩文秀, bính âm Hán ngữ: _Hán Wén Xiù_, sinh tháng 9 năm 1963, người Hán) là chuyên gia kinh tế, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hán Văn Tình** (1957 – 2016) là nam diễn viên tuồng và truyền hình, nghệ sĩ ưu tú người Việt Nam, nổi tiếng với vai Chu Văn Quyềnh trong phim _Đất và người_. Ông từng
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ