Hán Thành Đế (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy Lưu Ngao (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ ngày 4 tháng 8 năm 33 TCN đến khi qua đời, tổng 26 năm.
Hán Thành Đế bị đánh giá là hôn quân trong lịch sử nhà Hán, ham mê tửu sắc, hoang dâm vô đạo không lo việc triều chính. Quyền hành trong triều đều bị phân hóa vào tay họ Vương, dòng họ của mẹ ông là Vương Chính Quân (王政君), đây là tiền đề để Vương Mãng (王莽) giành quyền lực.
Thân thế
Lưu Ngao sinh năm 51 TCN, là con trưởng của Hán Nguyên Đế Lưu Thích và Hiếu Nguyên hoàng hậu Vương Chính Quân. Khi còn nhỏ, ông nổi tiếng thông minh và rất được ông nội Hán Tuyên Đế Lưu Tuân yêu quý. Lưu Ngao thích đọc kinh thư, biết nhiều và rất khiêm tốn, cẩn thận. Năm Lưu Ngao lên 2 tuổi (49 TCN), ông nội là Hán Tuyên Đế qua đời, thái tử Thích lên nối ngôi, tức là Hán Nguyên Đế.
Năm 46 TCN, Vương Chính Quân được lập làm Hoàng hậu, Lưu Ngao được phong làm Thái tử. Năm đó ông lên 6 tuổi.
Càng lớn, Hán Nguyên Đế càng không thích tác phong của Lưu Ngao mà lại thích con trai của Phó Chiêu nghi - Sơn Dương vương Lưu Khang. Năm 35 TCN, em trai út của Hán Nguyên Đế là Trung Sơn vương Lưu Cánh mất, Lưu Ngao đã tỏ thái độ thiếu tôn trọng với Trung Sơn vương khiến Nguyên Đế rất giận.
Hán Nguyên Đế yêu thích âm nhạc, và Lưu Khang đã ra sức học thổi sáo, chơi trống rất tài năng khiến Nguyên Đế rất vui, trong khi đó Lưu Ngao lại chỉ thích rượu chè, gái đẹp và những trò hưởng lạc. Vào một hôm, Nguyên Đế ngã bệnh, Phó chiêu nghi và Lưu Khang thường xuyên được vời vào hầu bệnh, dưới tác động của Phó chiêu nghi, Nguyên Đế muốn ra chỉ thay ngôi Thái tử nhưng đại thần Sử Đan (史丹) khuyên can mới thôi được.
Cai trị
Năm 33 TCN, Hán Nguyên Đế mất, Lưu Ngao lên ngôi, tức là Hán Thành Đế, Vương Chính Quân trở thành Hoàng thái hậu. Lưu Khang được cải phong Định Đào vương (定陶王), cai quản vùng Định Đào, còn Phó Chiêu nghi trở thành Định Đào Thái hậu (定陶太后). Dù âm mưu phế Thái tử trước đây, nhưng Hán Thành Đế và Vương thái hậu vẫn thân thiết với 2 mẹ con Phó thái hậu, thường triệu về kinh để bớt lời dị nghị từ phía đại thần đối với Lưu Khang.
Khi lên ngôi, Hán Thành Đế Lưu Ngao không chuyên tâm điều khiển chính sự, mà giao hết quyền hành trong triều cho các cậu họ Vương bên mẹ: Vương Phượng làm Đại Tư mã, Đại tướng quân kiêm Thượng thư lệnh, đồng thời phong 5 người thân thích bên mẹ khác gồm Vương Đàm, Vương Thương, Vương Lập, Vương Căn, Vương Phùng lên tước Hầu, họ Vương từ đấy lũng đoạn chính sự. Hán Thành Đế nhiều lần nhận ra sự chuyên quyền của họ Vương, nhưng do ảnh hưởng của mẹ ruột là Vương Thái hậu mà nhắm mắt làm ngơ. Chính sự bất ổn, mà bên ngoài liên tiếp có thiên tai, nhân dân khốn cùng bị bóc lột bèn nổi dậy chống lại.
Năm 29, Hầu Vô Tích khởi nghĩa ở Đông Quận, năm 22 TCN Thân Đồ Thánh khởi nghĩa ở Dĩnh Xuyên, năm 18 TCN Trịnh Cung nổi dậy ở Quảng Hán, Tô Lệnh nổi dậy ở Sơn Dương,… Năm 19 TCN, cuộc nổi dậy của Tô Lệnh lan ra 19 quận, giết các Thái thú nhà Hán. Triều đình phải cử nhiều binh tướng đi đánh dẹp trong nhiều năm mới dẹp được các cuộc nổi dậy này. Còn về phương Đông, lúc này nước Đông Phù Dư thì vẫn còn lớn mạnh, không thần phục nhà Hán, không những vậy, sự xuất hiện và ra đời của nước Cao Câu Ly vào năm 37 TCN, nước này đã coi nhà Hán là kẻ thù và đã tấn công sáp nhập lấy quận Huyền Thổ, Liêu Đông (là 2 trong số 4 quận mà nhà Hán đã lập ra trên đất Triều Tiên để cai trị) vào lãnh thổ khiến nhà Hán càng về sau càng suy yếu.
Vấn nạn Hậu cung
thumb|Hán Thành Đế
Trong cung, Hứa hoàng hậu và Ban Tiệp dư, 2 người được Hán Thành Đế sủng ái đều không có con, đâm ra chán nản. Cùng với sự khuyến khích của Vương Thái hậu cùng quần thần, ông còn không thương xót chuyện ly tán người thân trong thiên hạ, ra lệnh bắt bằng đủ 3000 mỹ nữ đưa vào hậu cung để có người nối dõi.
Năm 19 TCN, sau lần đến phủ chị gái là Dương A Công chúa (陽阿公主), ông gặp được 1 ca nữ tuyệt sắc là Triệu Phi Yến cùng người em cũng xinh đẹp không kém Triệu Hợp Đức, ngay lúc đó Hán Thành Đế đã say đắm cả hai người và đưa vào cung phong làm Phi tần. Hứa hoàng hậu và Ban tiệp dư đều bị thất sủng.
Năm 18 TCN, chị của Hứa Hoàng hậu là Hứa Yết trù ẻo Đại tướng quân Vương Phượng, Vương Thái hậu tức giận cho điều tra, cùng với hai chị em họ Triệu tố cáo, Hứa hoàng hậu bị tra ra tội trù yếm bùa chú trong cung. Vương Thái hậu sau đó ép Thành Đế phế truất Hứa hoàng hậu. Ban Tiệp dư lo sợ mình sẽ lại bị hại như Hoàng hậu, bèn tìm đến Trường Tín cung của Thái hậu, xin hầu hạ nơi đấy, tránh xa Hậu cung. Từ đấy họ Triệu độc sủng hậu cung. Hán Thành Đế muốn phong Triệu Phi Yến làm Hoàng hậu, nhưng do thân phận ti tiện, xuất thân hàn vi nên Vương thái hậu không đồng ý. Đến năm 16 TCN, sau nhiều lần thuyết phục và gia phong cho cha của Triệu Phi Yến, Thái hậu cũng đồng ý lập Triệu Phi Yến làm Hoàng hậu, em gái Triệu Hợp Đức cũng được phong làm Chiêu nghi. Từ đấy Hán Thành Đế chỉ sủng hạnh hai chị em họ Triệu, cùng họ xa hoa hưởng lạc. Ông cho xây Chiêu Dương cung (昭陽宮), rất tốn kém và huy động hàng chục vạn dân phu xây lăng mộ rất lớn và xa hoa cho mình trong hàng chục năm. Cũng vì ỷ sủng mà sinh kiêu, Triệu Hợp Đức ra sức giết chết các cung tần có thai với Hán Thành Đế, dần khiến Thành Đế đoạn tử tuyệt tôn, trở thành vấn đề nhức nhối của ông.
Năm 9 TCN, do không có con trai, Hán Thành Đế bèn triệu em trai là Trung Sơn vương Lưu Hưng và cháu trai là Định Đào vương Lưu Hân về Trường An, hòng chọn người kế vị. Bà nội của Lưu Hân là Đinh Đào Phó Thái hậu, đã diện kiến Triệu Hoàng hậu cùng những hòm châu báu, mong Hoàng hậu nói giúp với Hán Thành Đế lập cháu mình đăng ngôi, quả nhiên sau đó Hán Thành Đế lập Lưu Hân làm Thái tử.
Qua đời
Năm 7 TCN, ngày 18 tháng 3 (tức ngày 17 tháng 4 dương lịch), Hán Thành Đế Lưu Ngao băng hà ở Vị Ương cung (未央宮) sau 26 năm ở ngôi, hưởng dương 44 tuổi. Ông được tôn miếu hiệu là Thống Tông (統宗), thụy hiệu là Hiếu Thành hoàng đế (孝成皇帝), an táng tại Đình Lăng (延陵).
Thái tử Lưu Hân lên kế vị, trở thành Hán Ai Đế.
Niên hiệu
Trong 26 năm cai trị, Hán Thành Đế đặt ra các niên hiệu sau:
- Cánh Ninh (6 tháng cuối năm 33 TCN) .
- Kiến Thủy (建始; 32-28 TCN).
- Hà Bình (河平; 28-25 TCN).
- Dương Sóc (陽朔; 24-21 TCN).
- Hồng Gia (鴻嘉; 20-17 TCN).
- Vĩnh Thủy (永始; 16-13 TCN).
- Nguyên Đình (元延; 12-9 TCN).
- Tuy Hòa (綏和; 9-7 TCN).
Gia quyến
- Thân phụ: Hán Nguyên Đế Lưu Thích.
- Thân mẫu: Hiếu Nguyên hoàng hậu Vương Chính Quân (孝元皇后王政君, 71 TCN - 13), cô mẫu của Vương Mãng (王莽).
- Hậu phi:
Hứa hoàng hậu (许皇后, ? - 8 TCN), cháu gái Cung Ai hoàng hậu (恭哀皇后), mẹ của Hán Nguyên Đế và là bà nội của Hán Thành Đế. Xuất thân danh môn, đắc sủng nhiều năm nhưng không con, sau bị 2 chị em họ Triệu hãm hại mà phế truất.
Hiếu Thành hoàng hậu Triệu Phi Yến (孝成皇后赵飞燕, 32 TCN - 1 TCN), đệ nhất mỹ nhân, một trong 2 đại mỹ nhân nhà Hán bên cạnh Vương Chiêu Quân (王昭君).
Triệu Hợp Đức (赵合德), em gái Triệu hoàng hậu, được phong Chiêu nghi (昭仪), đắc sủng làm càn, sát hại hoàng tử, sau khi Hán Thành Đế băng thì bị hạch tội ép tự vẫn.
Ban tiệp dư (班婕妤), tài nữ đương thời, đắc sủng nhiều năm trước 2 chị em họ Triệu, sau bị Triệu Hợp Đức đe dọa nên đến hầu ở cung Thái hậu.
Vệ tiệp dư (卫婕妤), tên Lý Bình (李平), thị nữ của Ban tiệp dư, sau bị Triệu Hợp Đức hại chết.
Mã tiệp dư (马婕妤), cô của Phục Ba tướng quân Mã Viện (馬援) thời Đông Hán.
Trương mỹ nhân (张美人), em gái của sủng thiếp của Vương Phượng.
Hứa mỹ nhân (许美人), sinh 1 hoàng nam vào năm 11 TCN, bị Triệu Hợp Đức giết hại.
Tào cung (曹宫), tự Vĩ Năng (伟能), sinh 1 hoàng nam vào năm 12 TCN, bị Triệu Hợp Đức sát hại.
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hán Ai Đế** (chữ Hán: 漢哀帝; 26 TCN – 1 TCN) tên thật là **Lưu Hân** (劉欣) là vị Hoàng đế thứ 13 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景薄皇后; ? - 147 TCN), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, vị Hoàng đế thứ sáu của Tây Hán trong
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hán Thương Đế** (chữ Hán: 漢殤帝; 105 - 106), tên thật là **Lưu Long** (劉隆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 20 của nhà Hán trong
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Ngô Hán Thánh** (tiếng Trung giản thể: 吴汉圣, bính âm Hán ngữ: _Wú Hàn Shèng_, sinh tháng 4 năm 1963, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hán Xung Đế** (chữ Hán: 漢冲帝; 143 – 145), tên thật là **Lưu Bỉnh** (劉炳), là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 24 của nhà Hán trong
**Đổng quý nhân** (chữ Hán: 董貴人, ? - 200) là một phi tần của Hán Hiến Đế Lưu Hiệp và là con gái của Đổng Thừa, một viên quan được coi là trung thần nhà
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
**Thành Đế** (chữ Hán: 成帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách * Xuân Thu Chiến Quốc Thục Thành Đế