✨Hán An Đế

Hán An Đế

Hán An Đế (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là Lưu Hỗ (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 106 đến năm 125, tổng cộng 19 năm.

Trong vòng 15 năm đầu tiên của triều đại An Đế (106 - 121), Đặng thái hậu lâm triều nhiếp chính và điều hành toàn bộ, An Đế gần như không có quyền hành gì, sinh ra oán hận Thái hậu. Sau khi Đặng thái hậu mất, An Đế liền nghe theo lời hoạn quan thân tín và sẵn lòng thù ghét Thái hậu, đã hạ lệnh cách chức và xử tử nhiều người trong họ Đặng của Thái hậu.

Sau khi chấp chính, An Đế là người bất tài, thiếu đức, chỉ lo hưởng thụ, không để tâm chính sự, quyền hành đều rơi vào tay các hoạn quan. Vì thế, vợ của ông là Diêm hậu dần đưa thế lực ngoại thích họ Diêm vào trong nắm quyền hành, gây ra đảng tranh giữa hoạn quan và ngoại thích.

Thân thế

Hán An Đế Lưu Hỗ là con của Thanh Hà Hiếu vương Lưu Khánh - con trưởng của Hán Chương Đế và là anh ruột Hán Hòa Đế. Như vậy, Hán An Đế là cháu gọi Hán Hòa Đế bằng chú ruột và là cháu nội của Hán Chương Đế. Ông sinh ra vào năm 94 tại nước Thanh Hà (清河; nay là Thanh Hà, Hà Bắc), mẹ là Tả Tiểu Nga (左小娥).

Lưu Khánh đã từng được lập làm Thái tử thời Chương Đế, nhưng do mẹ ông là Tống quý nhân bị Đậu hoàng hậu ám hại, khiến ông bị liên lụy và bị phế truất. Sau đó, Lưu Khánh đã tác động đến Hòa Đế, khiến ông phát động chính biến diệt trừ phe cánh họ Đậu.

Tả Tiểu Nga trước đây cùng chị là Tả Đại Nga (左大娥) bị đưa vào cung làm nô tỳ do người cậu của hai người là Tả Thánh (左聖) bị tội đại nghịch. Khi lớn lên, hai chị em họ Tả ngày càng nổi tiếng vì xinh đẹp và sự uyên bác trong thơ ca, văn chương nên trở thành các cung nữ phục vụ trong cung của Hòa Đế. Khi Thanh Hà Hiếu vương được Hòa Đế đang muốn ban tặng vài cung nhân cho ông vì công lao trừ ngoại thích, ông đã nghe danh hai chị em họ Tả nên khẩn cầu và Hòa Đế đã chấp thuận. Hai chị em họ Tả đều chết vào lúc nào không rõ nhưng được xác định là trước khi Hán Hòa Đế băng hà vào năm 106 và được chôn cất ở Lạc Dương. Sau khi Tả thị qua đời, Lưu Hỗ được chính thất của Hiếu vương là Cảnh phu nhân nuôi lớn.

Sau khi Hán Hòa Đế băng hà, Đặng thái hậu lập con thứ của ông là Lưu Long làm Đế, tức Hán Thương Đế mà không lập con trường là Bình Nguyên vương Lưu Thắng (劉勝) vì cho rằng ông này bệnh tật, không thể kế vị. Các hoàng thân quốc thích, kể cả Thanh Hà vương Lưu Khánh bị buộc phải trở về đất phong của mình, nhưng Đặng Thái hậu lại giữ Lưu Hỗ lúc đó 12 tuổi và Cảnh phu nhân ở lại để phòng việc bất trắc xảy ra.

Sau đó không lâu Thương Đế qua đời, triều thần kiến nghị lập Bình Nguyên vương Lưu Thắng nhưng Đặng thái hậu lại lập Lưu Hỗ, tức là Hán An Đế. Khi lên ngôi ông mới 12 tuổi. Đặng Thái hậu vẫn nắm giữ quyền lực.

Đặng hậu nhiếp chính

Sau khi An Đế kế vị, Đặng thái hậu lập tức gửi Cảnh phu nhân trở về đất Thanh Hà, nhằm khiến vị Hoàng đế trẻ không còn người thân, phải phụ thuộc hoàn toàn vào bà. Đặng thái hậu nắm quyền chủ tâm không để ngoại thích họ Đặng nắm nhiều quyền lực, đồng thời đề phòng hoạn quan. Do đó hai lực lượng này không chen chân được vào triều chính.

Dưới thời đại của Đặng thái hậu nhiếp chính, có nhiều cuộc thiên tai, hạn hán và các cuộc giao tranh với Hung Nô, người Khương từ phương Bắc nhưng đều được Đặng thái hậu giải quyết ổn thỏa. Trong thời gian này, An Đế không thể tự mình quyết định việc gì, bèn mang tâm ghét bỏ Thái hậu. Lợi dụng sự rạn nứt giữa Đế Hậu mẫu tử, bọn hoạn quan Giang Kinh (江京), Lý Nhuận (李閏) câu kết với Nhũ mẫu Vương Thánh (王聖), dèm pha và gây mối chia cắt giữa Thái hậu và Hoàng đế.

Năm 111, vua Thái Tổ Đại Vương của Cao Câu Ly phái quân từ Liêu Đông tấn công biên giới đông bắc nhà Hán. Đặng thái hậu phải phái quân đi chống cự. Quân Cao Câu Ly nhanh chóng rút lui.

Năm 115, An Đế lập người phi tần yêu quý là Diêm Cơ làm Hoàng hậu. Cũng trong năm này, một người phi khác là Lý Cơ (李姬) sinh hạ được Hoàng tử Lưu Bảo. Diêm hậu sợ Lý Cơ sẽ tước đoạt vị trí của mình nên đã hạ độc Lý Cơ.

Năm 118, vua Thái Tổ Đại Vương của Cao Câu Ly lại phái quân từ Liêu Đông tấn công biên giới đông bắc nhà Hán. Đặng thái hậu liền phái quân đi chống cự. Quân Cao Câu Ly lại rút lui.

An Đế lớn lên, dần dần chỉ biết ăn chơi, sủng ái phi tần cung nữ, trái ngược hoàn toàn với vẻ thông minh và anh tuấn lúc nhỏ. Tuy Đặng thái hậu biết rõ là do từ tác động của bọn hoạn quan thân tín và nhũ mẫu, bà đã ra tay răn đe nhưng vẫn không khỏi thất vọng. Có tin đồn rằng, Đặng thái hậu muốn phế bỏ An Đế mà lập Lưu Dực (劉翼), con trai của Hà Gian Hiếu vương Lưu Khai (刘开) - con trai thứ sáu của Chương Đế - cũng là cháu nội Chương Đế.

Năm 120, Đặng thái hậu triệu Lưu Dực về kinh sư, phong làm Bình Nguyên vương (平原王), cho kế tự làm con của Bình Nguyên Hiếu vương Lưu Thắng. Do đó, Lưu Dực danh chính ngôn thuận ở lại kinh sư. Chính điều này khiến người ta càng tin Đặng thái hậu muốn phế An Đế mà lập Lưu Dực.

Thân chính

Năm 121, Đặng thái hậu qua đời. Lợi dụng cơ hội này, Nhũ mẫu Vương Thánh cùng hoạn quan Lý Nhuận, Giang Kinh vu cáo anh của Đặng thái hậu là Đặng Chất (邓骘) và hoạn quan Thái Luân âm mưu làm phản, tôn lập Bình Nguyên vương Lưu Dực làm Đế. Tức giận, Hán An Đế bèn ra lệnh diệt họ Đặng, biếm Lưu Dực trở về đất phong Hà Gian và giam cầm ở đó đến cuối đời.

Sau khi nắm quyền, An Đế lập tức truy tôn cha là Thanh Hà Hiếu vương Lưu Khánh làm Hiếu Đức hoàng (孝德皇), mẹ là Tả Tiểu Nga làm Hiếu Đức hoàng hậu (孝德皇后). Ngoài ra, bà nội của An Đế là Tống Quý nhân được truy tôn làm Kính Ẩn hoàng hậu (敬隐皇后), và chính thê của Thanh Hà Hiếu vương là Cảnh phu nhân trở thành Cam Lăng Đại quý nhân (甘陵大貴人; Cam Lăng là lăng của Thanh Hà vương). Dù là vị trí chính thê nhưng Cảnh thị chỉ được phong tước vị của một phi tần, khiến bà cũng trở nên bất mãn. Để xoa dịu, An Đế phong cho người em trai Cảnh thị là Cảnh Bảo (耿寶) tước vị trong triều đình.

Thay thế ngoại thích họ Đặng, ngoại thích họ Tống của Kính Ẩn hoàng hậu và họ Diêm của Diêm hậu trở nên hiển quý trong triều. Trong đó, ngoại thích họ Diêm đứng đầu là Diêm Hiển (閻顯), Diêm Cảnh (閻景) và Diêm Diệu (閻耀) có thế lực nhất, dưới sự hỗ trợ của Diêm hậu càng trở nên ngông cuồng. Bên cạnh đó, các hoạn quan Giang Kinh, Lý Nhuận và nhũ mẫu Vương Thánh cũng được cất nhắc theo, họ hàng con cái đều được phong. Do đó, xảy ra tình trạng ngoại thích và hoạn quan đấu đá nhau, lũng đoạn triều chính.

Trước tình hình đó, Tư đồ Dương Chấn (楊震) mấy lần dâng thư can ngăn nhưng An Đế không nghe theo. Năm 121, quân Hung Nô phía Mạc Bắc thừa cơ tấn công Hà Tây, bộ lạc Tiên Ty tấn công Cư Dung quan, người Khương tấn công Kim Thành. Hán An Đế vẫn không lo lắng, giao hết việc cho hoạn quan Phiền Phong (樊豐). Dương Chấn lại dâng thư can ngăn, An Đế nghe lời Phiền Phong bèn bãi chức Dương Chấn. Không lâu sau, Dương Chấn uất ức tự sát. Trước tình hình đó, triều đình phải dựa vào Ban Dũng (班勇), con trai của Đại tướng Ban Siêu chống đỡ và lập lại sự cai trị của nhà Hán lên khu vực này, tình hình mới tạm yên ổn.

Năm 122, vua Thái Tổ Đại Vương của Cao Câu Ly liên kết cùng các bộ tộc khác tấn công và chiếm gần hết miền Liêu Đông của nhà Hán.

Năm 124, bọn người Phiền Phong, cùng Giang Kinh, Vương Thánh tố cáo Nhũ mẫu của Thái tử Bảo là Vương Nam (王男) cùng Đầu giám Bỉnh Cát (邴吉), khiến hai người này bị xử tử. Tiếp đó, Diêm hậu cùng bọn người Phiền Phong lo sợ hậu hoạn về sau, tố cáo tiếp Thái tử âm mưu làm phản, khiến Thái tử bị giáng làm Tế Âm vương (济阴王).

Qua đời

Năm 125, ngày 30 tháng 4, Hán An Đế đi du ngoạn ở Giang Nam, đến Uyển Thành mắc bệnh rồi băng hà khi mới 31 tuổi. Ông được truy tôn miếu hiệu là Cung Tông (恭宗), thụy hiệu là Hiếu An hoàng đế (孝安皇帝), an táng tại Cung lăng (恭陵).

Hán An Đế chỉ có duy nhất Lưu Bảo là con trai, nhưng Diêm hậu sợ Lưu Bảo sẽ trả thù mình, nên cùng anh là Diêm Hiển lập một người trong hoàng tộc là Bắc Hương hầu Lưu Ý kế vị. Diêm hậu trở thành Thái hậu, lâm triều xưng chế.

Niên hiệu

Trong thời gian 19 năm trị vì, ông sử dụng 5 niên hiệu:

  • Vĩnh Sơ (永初; 107 - 113).
  • Nguyên Sơ (元初; 114 - 120).
  • Vĩnh Ninh (永寧; 120 - 121).
  • Kiến Quang (建光; 121 - 122).
  • Diên Quang (延光; 122 - 125).

Gia quyến

  • Thân phụ: Thanh Hà Hiến vương Lưu Khánh (刘庆; 78 - 107), sau truy phong Hiếu Đức hoàng (孝德皇).
  • Thân mẫu: Tả Tiểu Nga (左小娥), sau truy phong làm Hiếu Đức hoàng hậu (孝德皇后).
  • Hậu cung:

    An Tư Diêm hoàng hậu (安思閻皇后; ? - 126), người Huỳnh Dương, Hà Nam, xuất thân danh môn, là con gái của đại thần Diêm Sướng (閻暢).

    Lý cơ (李姬), mẹ của Hán Thuận Đế Lưu Bảo, sau đó bị Diêm hậu hạ độc chết năm 115. Về sau, Thuận Đế truy phong làm Cung Mẫn hoàng hậu (恭愍皇后).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hán An Đế cung nhân Lý thị** (chữ Hán: 漢安帝宮人李氏; ? - 115), thụy **Cung Mẫn hoàng hậu** (恭愍皇后), là một phi tần của Hán An Đế Lưu Hỗ, sinh mẫu của Hán Thuận Đế
**Hán Ẩn Đế** (_chữ Hán_:漢隐帝) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách *Hán Ẩn Đế Lưu Xán, 1 vị vua nhà Hán Triệu thời Ngũ Hồ thập lục quốc
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Hán Thương Đế** (chữ Hán: 漢殤帝; 105 - 106), tên thật là **Lưu Long** (劉隆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 20 của nhà Hán trong
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景薄皇后; ? - 147 TCN), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, vị Hoàng đế thứ sáu của Tây Hán trong
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hán Chất Đế** (chữ Hán: 漢質帝; 138 – 146), tên thật là **Lưu Toản** (劉纘), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 25 của nhà Hán trong
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**An Đế** (chữ Hán: 安帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Tây Hán An Đế, gọi tắt theo thụy hiệu gốc là Hiếu An Đế *Đông Tấn An Đế
**Ẩn Đế** (chữ Hán: 隱帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra [http://www.wfxs.org/html/132511/ _Ẩn Đế_] cũng là tên 1 cuốn tiểu thuyết thẩm mĩ của Cơ Sóc ## Danh sách *
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
**Đại vương hậu** () là nguyên phối thê tử của Hán Văn Đế Lưu Hằng khi ông còn là **Đại vương** (代王) nước Đại (196 TCN - 180 TCN), nước chư hầu của nhà Hán.