Hàn An Quốc (; ? – 127 TCN), tên tự Trường Nhụ, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Móc nối triều đình
Hàn An Quốc từng ở nhà Điền tiên sinh ở huyện Trâu Bình, Sơn Đông (phía đông Hào Sơn) học "Hàn Phi tử" và học thuyết tạp gia. Ban đầu ông làm Trung đại phu cho Lương Hiếu vương Lưu Vũ. Trong loạn bảy nước, Lương Hiếu vương dùng Hàn An Quốc và Trương Vũ làm tướng, đưa quân đến biên giới phía đông của nước Lương, chống lại quân Ngô. Nhờ Trương Vũ ra sức chiến đấu, Hàn An Quốc phòng ngự vững vàng, mà quân Ngô không thể vượt qua phòng tuyến của nước Lương. Hàn An Quốc nhờ chiến công này mà bắt đầu được biết đến.
Lương Hiếu vương là em cùng mẹ với Hán Cảnh đế. Đậu thái hậu rất sủng ái ông ta, ban cho Lương vương quyền được chọn Quốc tướng và những quan viên nhận bổng lộc 2000 thạch/năm. Ông ta tiếm dùng lễ nghi của thiên tử trong việc đi lại, Cảnh đế nghe được, trong lòng rất không vui. Đậu thái hậu biết Cảnh đế bất mãn, bèn giận lây sứ giả nước Lương, cự tuyệt tiếp kiến, mà còn trách vấn bọn họ những việc làm của Lương vương. Bấy giờ Hàn An Quốc là sứ giả của nước Lương, liền đến gặp Đại trưởng công chúa kêu khóc: kể công của Lương vương trong loạn bảy nước; giãi bày việc ra xưng Tất, vào hô Cảnh chỉ là tỏ cho các chư hầu và quan dân thấy tình cảm yêu mến của Thái hậu và Hoàng đế dành cho Lương vương; còn các thứ cờ, xe đều là hoàng đế ban cho.
Đại trưởng công chúa chuyển lời đến Thái hậu. Đậu thái hậu rất cao hứng, Cảnh đế đành chìu ý mẹ mà bỏ qua việc này. Đậu thái hậu và Đại trưởng công chúa thưởng cho Hàn An Quốc tài vật giá trị hơn ngàn vàng. Từ đây, Hàn An Quốc đã thiết lập được quan hệ với triều đình nhà Hán.
Phạm pháp bị giam
Về sau, Hàn An Quốc phạm pháp, bị giam vào nhà ngục ở huyện Mông. Ông bị ngục lại Điền Giáp đánh đập sỉ nhục, Hàn An Quốc phẫn uất nói: "Tro tàn không thể bốc cháy trở lại hay sao?" Điền Giáp ngang ngược đáp: "Nếu có cháy được thì ta cũng vãi đái mà dập tắt."
Không lâu sau, nước Lương khuyết chức Nội sử, Lương vương muốn dành chỗ ấy cho sủng thần Công Tôn Quỷ. Nhưng Đậu thái hậu lại hạ chiếu, mệnh cho Lương vương lấy Hàn An Quốc làm Nội sử, thế là Hàn An Quốc từ phạm nhân trở thành quan viên nhận bổng lộc 2000 thạch/năm.
Điền Giáp bỏ trốn, Hàn An Quốc phao lên muốn giết cả họ ông ta, Điền Giáp bèn cởi áo đến tạ tội. Hàn An Quốc cười nói: "Bây giờ ngươi có thể vãi đái được rồi. Người như ngươi đáng để ta báo thù hay sao!?" Cuối cùng, ông tha cho Điền Giáp.
Giết gian thần
Công Tôn Quỷ, Dương Thắng xúi giục Lương Hiếu vương xin với Hán Cảnh đế cho ông ta được kế thừa hoàng vị và tăng thêm đất phong; còn ngầm phái thích khách diệt trừ những đại thần phản đối việc này. Đến khi Ngô quốc tướng Viên Áng bị sát hại, Hán Cảnh đế tra xét, biết được đây là âm mưu của Công Tôn Quỷ và Dương Thắng, bèn phái sứ giả đến nước Lương tróc nã bọn chúng.
Sứ giả triều đình đến nước Lương tra xét, từ Quốc tướng trở xuống đến cả nước, hơn 1 tháng vẫn không có kết quả. Hàn An Quốc biết 2 người đang trốn trong cung của Lương vương, bèn vào cung diện kiến, khóc mà khuyên can. Ông so sánh những mối quan hệ giữa Lưu thái công – Hán Cao Tổ, Hán Cảnh đế - Lâm Giang vương Lưu Vinh với mối quan hệ Hán Cảnh đế - Lương vương, chỉ ra pháp luật không vị tư tình. Lương vương tỉnh ngộ, hứa sẽ giao người. Công Tôn Quỷ, Dương Thắng đành phải tự sát.
Sứ giả trở về, thuật lại toàn bộ quá trình ở nước Lương, Đậu thái hậu và Hán Cảnh đế càng thêm coi trọng Hàn An Quốc.
Năm 144 TCN, Lương Hiếu vương qua đời, Cung vương kế vị. Hàn An Quốc lại phạm pháp nên bị cách chức, nhàn cư ở nhà cũ tại huyện Lương.
Vào triều làm quan
Những năm Kiến Nguyên (140 TCN – 135 TCN), Vũ An hầu Điền Phẫn làm Thái uý, Hàn An Quốc hối lộ ông ta 500 cân vàng. Phẫn bèn tiến cử An Quốc với Vương thái hậu, Hán Vũ đế cũng nghe nói ông là người hiền năng, nên lấy ông làm Bắc Địa đô úy, sau lại thăng làm Đại tư nông.
Mân Việt, Đông Việt hùa nhau nổi dậy, Hàn An Quốc và Đại hành Vương Khôi đưa quân đi trước. Chưa đến nơi, người Việt đã giết quốc vương của họ rồi đầu hàng, nhà Hán thu binh trở về.
Đảm nhiệm Ngự sử đại phu
Năm Kiến Nguyên thứ 6 (135 TCN), Điền Phẫn đảm nhiệm chức Thừa tướng, Hàn An Quốc nhận chức Ngự sử đại phu. Hung Nô phái sứ giả đến xin hòa thân, Hán Vũ đế giao cho triều thần nghị luận.
Đại hành Vương Khôi là người nước Yên, nhiều lần ra làm quan ở các quận Biên cương. Ông ta cho rằng hòa thân cũng chỉ kéo dài được vài năm, kiến nghị phát binh tiến đánh Hung Nô.
Hàn An Quốc bàn rằng: "Hiện nay Hung Nô binh mã cường tráng, quân nhu sung túc; bọn chúng bụng dạ như cầm thú, di chuyển như chim bay, rất khó khống chế. Quân Hán đi xa mấy ngàn dặm hòng giành thắng lợi, khiến cho người ngựa mỏi mệt; kẻ địch sẽ dùng tất cả ưu thế của chúng đối phó với nhược điểm của ta. Cũng như nỏ giương hết sức thì không bắn thủng 1 tấm lụa mỏng, gió thổi hết hơi thì không cất nổi 1 sợi lông hồng. Vì thế phát binh tiến đánh Hung Nô là rất không hay, chẳng bằng cho họ hòa thân."
Quần thần đa số đồng tình với Hàn An Quốc, nên Hán Vũ đế chấp nhận hòa thân với Hung Nô.
Đảm nhiệm tướng quân
Năm 134 TCN, Đại hành Vương Khôi dùng kế phản gián của Nhiếp Nhất, dẫn dụ Thiền vu của Hung Nô đưa hơn 10 vạn kỵ binh vào cướp. Quân Hán giấu chiến xa, kỵ binh, cả thảy hơn 30 vạn người ngoài thành Mã Ấp thuộc quận Nhạn Môn. Hàn An Quốc đảm nhiệm Hộ quân tướng quân, thống lĩnh chư tướng. Vương Khôi đảm nhiệm Tương đồn tướng quân, thống lĩnh 3 vạn binh mã náu bên ngoài quận Đại, hòng tập kích quân nhu vật tư của Hung Nô.
Nhưng Thiền vu phát giác mưu kế của quân Hán, đưa quân rút chạy, quân Hán đuổi theo không kịp. Vương Khôi thấy Hung Nô chưa gặp tổn thất gì, cho rằng mình ít không địch nổi nhiều, cũng quyết định thu quân. Vì vậy, quân Hán vô công mà về. Hán Vũ đế kết tội Vương Khôi sợ Hung Nô không đánh, giao cho đình úy, ông ta tự sát.
Đảm nhiệm thừa tướng
Hàn An Quốc rất có thao lược, lại khéo thích ứng với hoàn cảnh. Ông tuy tham lam tiền tài, nhưng trong lòng cũng có điểm trung hậu, những người ông tiến cử đều là kẻ sĩ liêm khiết, như Bồ Toại, Tang Cố, Chất Đô... vì vậy rất được giới sĩ phu ca ngợi và ngưỡng mộ. Đến Hán Vũ đế cũng cho rằng ông tài trị nước.
Hàn An Quốc đảm nhiệm Ngự Sử đại phu được 4 năm, năm 131 TCN, thừa tướng Điền Phẫn mất, ông được thay chức, không may bị ngã xe, chân bị thương rất nặng.
Hàn An Quốc nhân bệnh miễn chức, mấy tháng sau chân khỏi hẳn, được đảm nhiệm Trung úy. Năm sau, ông được điều nhiệm làm Vệ úy.
Uất ức mà chết
Khi Vệ Thanh giao chiến với Hung Nô, Hàn An Quốc làm Tài quan tướng quân đóng quân ở Ngư Dương, bắt được cả ngàn người Hung Nô nên nắm được tình hình của họ, dâng sớ xin dừng việc đóng đồn, chuyên tâm làm ruộng.
Được hơn tháng, đại quân Hung Nô xâm nhập Thượng Cốc, Ngư Dương, Hàn An Quốc đưa hơn 700 người ra đánh, không địch nổi phải lui về cố thủ thành trì. Vũ đế cả giận, sai sứ đến khiển trách An Quốc.
Sau đó, Hàn An Quốc được điều đến Ích Đông, đóng quân ở Hữu Bắc Bình.
Trong khi bọn tướng lĩnh mới nổi như Vệ Thanh ngày càng hiển hách, An Quốc ở nơi xa xôi, lại thêm thua trận, lấy làm xấu hổ, thường uất ức không vui. Mấy tháng sau, tức là năm 127 TCN, ông bệnh nặng, thổ huyết mà chết.
Thành ngữ
- Tử hôi phục nhiên (tạm dịch nghĩa: tro tàn lại cháy)
- Cường nỗ chi mạt (tạm dịch nghĩa: nỏ giương hết sức)
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều
**Chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc** () là chính phủ lâm thời và lưu vong của Hàn Quốc có trụ sở tại Trung Quốc trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên.
**Định An Quốc** (; ; 935 - 999) là một nhà nước kế thừa của vương quốc Bột Hải, được Liệt Vạn Hoa (Yeol Manhwa) thành lập tại khu vực Bàn Thạch, Liêu Ninh ngày
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hạn hán Trung Quốc 2010–2011** là một đợt hạn hán bắt đầu vào cuối năm 2010 và ảnh hưởng lên 8 tỉnh phía Bắc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là trận hạn
**Đệ tam Đại Hàn Dân quốc** là chính phủ của Đại Hàn Dân quốc từ tháng 12 năm 1963 đến tháng 11/1972. Nền cộng hòa thứ ba được thành lập dựa trên sự giải thể
**An quốc quân** () là một liên minh quân phiệt do Trương Tác Lâm đứng đầu, và là nhánh quân đội của Chính phủ Bắc Dương, Trung Hoa Dân Quốc. Lực lượng này được thành
**Đệ nhất Đại Hàn Dân Quốc**, trong tiếng Hàn ngày nay gọi là **Đại Hàn Dân Quốc Đệ nhất Cộng hòa quốc** () là chính phủ của Hàn Quốc từ tháng 8 năm 1948 đến
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Nam Hán** () là một vương quốc tồn tại từ năm 917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc.
**Chiến tranh Hán – Nam Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Hán (còn gọi là Nhà Tây Hán) và nước Nam Việt thời Nhà Triệu vào cuối thế kỷ 2 trước Công nguyên.
[[Tập tin:五代后晋、后汉时形势图(繁).png| Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân
]] **Nhà Hậu Hán** (後漢) được thành lập năm 947. Đây
**Viện Hàn lâm Anh Quốc** (tiếng Anhː **_The British Academy_**) là viện hàn lâm quốc gia về khoa học xã hội và nhân văn của nước Anh. Viện được thành lập năm 1902 và nhận
**Hàn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này khá phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 韓, Bính âm: Han), nó đứng thứ 15 trong danh sách _Bách gia
**Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ** (tiếng Anh: National Academy of Sciences, viết tắt **NAS**) là một tổ chức ở Hoa Kỳ mà các thành viên phục vụ _pro bono_ (tình nguyện
**Hán Ẩn Đế** (_chữ Hán_:漢隐帝) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách *Hán Ẩn Đế Lưu Xán, 1 vị vua nhà Hán Triệu thời Ngũ Hồ thập lục quốc
**An Quốc** (chữ Hán giản thể:安国市, âm Hán Việt: _An Quốc thị_) là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố
**Tòa án Hình sự Quốc tế** là một tổ chức, tòa án quốc tế có trụ sở tại Den Haag, Hà Lan và là tòa án quốc tế thường trực đầu tiên và duy nhất
**Trung tâm Greenland Vũ Hán** (tiếng Trung:武汉绿地中心; pinyin:Wǔhàn lǜdì zhōngxīn; nghĩa là Trung tâm Xanh Vũ Hán) là một tòa nhà chọc trời cao 475,6 mét (1.562 ft) với 97 tầng ở Vũ Hán, Trung Quốc.
thumb|right|Món phở của Việt Nam **Món ăn quốc gia** (_National dish_) hay **món ăn quốc dân** là một món ăn tiêu biểu, phổ biến cho một nền ẩm thực gắn liền với một quốc gia
**An Quốc thiền vu** (, ?-94) là con trai của Hải Lạc Thi Trục Đê thiền vu của Nam Hung Nô và là đệ của Hưu Lan Thi Trục Hầu Đê. Ông kế vị thiền
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Chính phủ Hàn Quốc** là chính quyền trung ương của nhà nước Đại Hàn Dân Quốc. Cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, cơ quan này được chia làm 3 nhánh
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
Trụ sở Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Hàn Quốc **Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Hàn Quốc** (Tiếng Hàn: 대한민국 경찰청**,** Tiếng Anh: Korean National Police Agency (**KNPA**)), hay còn gọi là **Cảnh sát
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
**Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc** (), thường được gọi với các tên thông dụng hơn là **Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc** hay **Quân đội Hàn Quốc** (), là lực lượng vũ trang và
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Quốc huy Hàn Quốc** (**)** gồm có biểu tượng _Thái cực_ trên quốc kỳ xung quanh là 5 cánh hoa cách điệu và dây ruy băng mang dòng chữ 대한민국 (_Daehan Minguk,_ "Đại Hàn Dân
**Cơ quan Tình báo Quốc gia** (**NIS**; - Quốc gia Tình báo Viện, Quốc Tình Viện) là cơ quan tình báo cấp quốc gia của Hàn Quốc. Cơ quan này được chính thức thành lập
**Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc** (tên tiếng Anh: **National University of Defense Technology** (**NUDT**; ) trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc, là một trường đại học trọng điểm quốc gia
**Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc** (**VKFTA**; tiếng Anh: Viet Nam – Korea Free Trade Agreement; tiếng Hàn: 한-베트남 자유무역협정) là điều ước quốc tế được ký kết giữa Cộng
**Tòa án Hiến pháp Hàn Quốc** () là một tòa án độc lập và chuyên trách Hàn Quốc, có vai trò chính là rà soát các hợp hiến dưới Hiến pháp Đại Hàn Dân Quốc.