✨Hán Chiêu Đế

Hán Chiêu Đế

Hán Chiêu Đế (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là Lưu Phất Lăng (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Khi ông kế vị chỉ mới 8 tuổi, đại thần Hoắc Quang (霍光) đảm nhận vai trò nhiếp chính. Ông là vị Hoàng đế tài ba, tuy chỉ trị vì được 13 năm (87 TCN - 74 TCN) nhưng được xem như một vị quân chủ có công của nhà Hán. Thời đại của ông cùng với Hán Tuyên Đế được gọi chung là Chiêu Tuyên chi trị (昭宣之治).

Thời đại trị vì của Hán Vũ Đế đã đem lại cho nhà Hán một lãnh thổ rộng lớn, tuy vậy cũng do đó khiến quốc khố cạn kiệt, nạn đói hoành hành, triều đình đứng trước bờ vực phá sản. Sau khi Hán Vũ Đế qua đời, Chiêu Đế dựa vào Hoắc Quang đã thi hành chính sách tiết kiệm, an dân, giảm thuế, kinh tế của nhà Hán dần khôi phục. Trong thời gian ở ngôi, Chiêu Đế tích cực duy trì hòa bình bang giao, dân chúng hoàn toàn hưởng thái bình trong thời gian này.

Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế băng hà ở tuổi 21. Hoắc Quang lập Xương Ấp Vương Lưu Hạ kế vị, nhưng mau chóng phế bỏ. Họ Hoắc bèn tìm trong dân gian Lưu Bệnh Dĩ, một người cháu của Lệ Thái tử Lưu Cứ trước đây lập lên ngôi, tức Hán Tuyên Đế.

Thân thế

Lưu Phất Lăng là con trai thứ sáu của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, sinh vào năm Thái Thủy thứ 3 (94 TCN). Mẹ ông là Câu Dặc phu nhân Triệu thị, một sủng thiếp vào cuối đời của Hán Vũ Đế, nên khi còn nhỏ ông có hiệu [Câu Dặc tử; 钩弋子]. Do mất mẹ từ nhỏ, ông được chị gái là Ngạc Ấp công chúa chăm sóc.

Năm Chinh Hòa thứ 2 (91 TCN), phát sinh Họa Vu cổ. Lệ Thái tử Lưu Cứ cùng Hoàng hậu Vệ Tử Phu đều bị hạ bệ, ngôi vị Thái tử của Hán Vũ Đế bị để trống. Vào lúc này, những người con trai khác của Hán Vũ Đế bắt đầu có ý ngó đến ngôi vị Thái tử. Con trai thứ hai của Hán Vũ Đế là Tề Hoài vương Lưu Hoành đã mất sớm. Sau họa Vu cổ, những người con trai còn sống của Hán Vũ Đế là Yên vương Lưu Đán, Quảng Lăng vương Lưu Tư, Xương Ấp vương Lưu Bác (刘髆) cùng Lưu Phất Lăng.

Không lâu sau khi Lưu Cứ mất, Yên vương Lưu Đán dâng thư, nói xin về kinh sư đảm nhiệm chức Thị vệ bảo vệ hoàng cung. Hán Vũ Đế nhìn ra Lưu Đán có âm mưu với ngôi vị Thái tử, liền rất tức giận, ở cửa Bắc giết chết sứ giả của Lưu Đán, cũng ra chỉ tước đi 3 huyện của nước Yên. Còn Quảng Lăng vương Lưu Tư, vốn là người xa xỉ, không có tài cán lại thích làm càn làm quấy, từ lâu đã không phải người có thể trở thành Thái tử. Còn Xương Ấp vương Lưu Bác, ông vốn là do Lý phu nhân sinh ra. Lý phu nhân là một sủng phi của Hán Vũ Đế, nhưng hai anh trai của Lý phu nhân là Lý Diên Niên cùng Lý Quảng Lợi liên tiếp đắc tội với Hán Vũ Đế. Đặc biệt là Lý Quảng Lợi tuy đã được tha thứ, cuối cùng lại đầu hàng Hung Nô, dẫn đến toàn bộ nhà họ Lý bị tru di. Xương Ấp vương Lưu Bác có một nhà mẹ như vậy, không cần nói cũng thấy khả năng ông kế vị rất thấp. Hoàng lục tử Lưu Phất Lăng là đứa con trai còn lại, nhỏ nhất của Hán Vũ Đế, và cũng là nhân tuyển khả dĩ nhất của Hán Vũ Đế. Trong khoảng năm Chinh Hòa thứ 3 đến thứ 4 (90 TCN đến 89 TCN), Hán Vũ Đế cho rằng Lưu Phất Lăng tuy chỉ mới 6 tuổi, nhưng thân thể cực tốt, hơn nữa lại rất thông minh, dự bị lập làm Thái tử.

Năm Hậu Nguyên thứ 2 (87 TCN), Hán Vũ Đế Lưu Triệt sau 54 năm cai trị đã băng hà, Hoàng thái tử Lưu Phất Lăng lên ngôi tức Hán Chiêu Đế.

Cai trị

Những năm đầu tiên

Trong 6 năm đầu, Hán Chiêu Đế còn nhỏ, quyền hành chủ yếu tập trung trong tay Tư mã đại tướng quân Hoắc Quang. Hoắc Quang giúp ấu đế trị nước yên bình. Thế lực nhà Hán vẫn rất cường thịnh. Bên trong hậu cung, Ngạc Ấp công chúa được vời vào cung điện để dạy dỗ Chiêu Đế, từ đó trở thành người cai quản hậu cung.

Yên vương Lưu Đán (劉旦), vốn rất không vừa ý việc lên ngôi của Chiêu Đế bèn nuôi ý định làm phản. Năm 86 TCN, Lưu Đán lôi kéo hai thành viên khác của hoàng tộc là Lưu Trường (劉長) và Lưu Trạch (劉澤). Đầu tiên 2 người sẽ tố cáo Chiêu Đế không phải con ruột của Hán Vũ Đế, rồi Lưu Trạch sẽ phát động binh biến từ Lâm Truy (臨淄, nay là Truy Bác, Sơn Đông, trong khi đó Lưu Đán sẽ dấy binh từ nước Yên. Sự việc bại lộ, nhưng Lưu Đán không bị trách phạt trong khi 2 hoàng thân kia và quân đội theo phản đều bị xử trảm.

Thượng Quan Kiệt và Hoắc Quang đồng nhiếp chính nhưng Thượng Quan Kiệt luôn bị lép vế hơn. Không cam lòng, ông ta luôn ra sức thâu tóm quyền hành trong tay hơn so với Hoắc Quang, dù cả hai đã thông gia với nhau khi con trai Thượng Quan Kiệt là Thượng Quan An (上官安) đã lấy con gái Hoắc Quang làm vợ, cả hai sinh được một con gái.

Năm 84 TCN, Thượng Quan Kiệt muốn dựa vào thế lực của Hoắc Quang để đưa cháu gái vào cung làm Hoàng hậu của Chiêu Đế, nhưng bị Hoắc Quang phản đối. Thượng Quang An vốn là bạn của người tình của Ngạc Ấp công chúa là Đinh Ngoại Nhân (丁外人), Thượng Quan An đã nhờ họ Đinh thuyết phục công chúa và hứa sẽ cho Đinh chức tước, công chúa đồng ý và sau đó Thượng Quan thị trở thành Tiệp dư (婕妤).

Năm 83 TCN, Thượng Quan thị được phong làm Hoàng hậu. Năm đó Hoàng hậu mới 6 tuổi và Hán Chiêu Đế cũng mới 12 tuổi.

Trong khoảng thời gian này, với sự gợi ý của Đỗ Diên Niên (杜延年), Hoắc Quang bắt đầu giải quyết những hậu quả chiến tranh mà thời Hán Vũ Đế đã đem lại.

Sau nhiều cuộc tranh luận về sự độc quyền các mặt hàng muối, sắt và rượu, thì sắt và rượu đã được bãi bỏ lệnh độc quyền của triều đình và các thương nhân có thể thu được lợi nhuận từ các mặt hàng này. Đời sống kinh tế của dân chúng dần được cải thiện sau nhiều năm chiến tranh. Người đứng đầu chính sách độc quyền mặt hàng là Tang Hoằng Dương (桑弘羊) cảm thấy bực bội và sinh oán hận Hoắc Quang.

Diệt trừ cha con Thượng Quan

Năm 81 TCN, Thượng Quan An được phong chức tước Hầu, vì tước phong hiển hách và là cha của Hoàng hậu, ông trở nên ngông cuồng trong triều đình.

Năm 80 TCN, Thượng Quan An và Thượng Quan Kiệt càng có tư thù sâu sắc với Hoắc Quang. Như đã hứa với Đinh Ngoại Nhân, Thượng Quan An muốn phong ông ta tước Hầu, nhưng Hoắc Quang nhất lực từ chối, không cho họ Đinh làm quan triều đình. Việc này không những mất lòng 2 cha con Thượng Quan mà cả Ngạc Ấp công chúa cũng trở nên căm ghét Hoắc Quang.

Nhà Thượng Quan, Ngạc Ấp công chúa, Yên vương Lưu Đán và Tang Hoằng Dương trở thành các thế lực muốn dẹp trừ Hoắc Quang. Họ lập mưu tạo phản, trừ khử Hoắc Quang rồi phế bỏ Chiêu Đế, lập Yên vương Lưu Đán đăng cơ. Kế hoạch của họ là vu cáo Hoắc Quang mưu phản, chỉ chờ khi Hán Chiêu Đế tiến hành điều tra thì sẽ dụng binh ập đến bắt ngay Hoắc Quang.

Một hôm, Hoắc Quang kiểm tra cấm binh rồi điều một viên hiệu úy đến phủ tướng quân nhậm chức. Cha con Thượng Quan giả danh Yên vương, dâng thư cho Chiêu Đế vu cáo Hoắc Quang tạo phản. Không ngờ hoàng đế trẻ nói với họ:

Xong Chiêu Đế truyền chỉ: "Bắt kẻ đưa thư, điều tra xem ai vu cáo." Cha con Thượng Quan An vô cùng ngạc nhiên và khiếp sợ, vội tâu với vua rằng chuyện ấy không cần điều tra. Hán Chiêu Đế không nói gì, cho bãi triều. Từ đó Chiêu Đế luôn cảnh giác đề phòng cha con Thượng Quan.

Không lâu sau, cha con Thượng Quan lại tiến hành kế hoạch khác. Họ nhân danh Ngạc Ấp công chúa, dự tính mời Hoắc Quang đến dự tiệc và trong buổi tiệc đó bắt trói và giết chết Hoắc Quang. Sau đó Thượng Quan Kiệt sẽ thủ tiêu luôn Công chúa và Lưu Đán, tự lập làm Hoàng đế. Hoắc Quang được mật báo kế hoạch, tất cả âm mưu đều bị dẹp, Ngạc Ấp công chúa và Yên vương bị buộc tự sát, còn nhà Thượng quan bị tru di tam tộc. Từ đó Hoắc Quang trao trả quyền lực cho Chiêu Đế.

Những năm cuối

Sau sự việc trên, Hoắc Quang cho thanh trừng và nghiêm khắc trừng trị những phe phái có liên quan đến nhà Thượng Quan, cũng như thẳng tay những ai có âm mưu tạo phản. Hán Chiêu Đế chăm lo trị quốc, phát triển kinh tế. Vì thế, nhà Hán giữ vững được thời toàn thịnh.

Tháng 7 năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế đột ngột ngã bệnh rồi qua đời tại Vị Ương cung (未央宮), năm đó ông mới 20 tuổi, ở ngôi 13 năm. Ông truy tôn thụy hiệu là Hiếu Chiêu Hoàng đế (孝昭皇帝), được táng ở Bình Lăng (平陵).

Sau đó, Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ (劉賀) làm Hoàng đế, nhưng mới có 27 ngày đã dâm loàn vô đạo, triều cương nhà Hán rối loạn. Hoắc Quang vội tụ tập đại thần rồi tuyên bố phế Lưu Hạ, lập Lưu Tuân làm Hoàng đế, tức Hán Tuyên Đế, nhà Hán tiếp tục thịnh trị.

Niên hiệu

Đời Hán Chiêu Đế đặt 3 niên hiệu:

  • Thủy Nguyên (始元; 87 TCN - 80 TCN)
  • Nguyên Phượng (元鳳; 80 TCN - 75 TCN)
  • Nguyên Bình (元平; 74 TCN)

Gia quyến

  • Thân phụ: Hán Vũ Đế Lưu Triệt.
  • Thân mẫu: Câu Dặc phu nhân Triệu thị (钩弋夫人趙氏, 113 TCN - 88 TCN), bị Hán Vũ Đế ép chết.
  • Hậu cung:

    Hiếu Chiêu hoàng hậu Thượng Quan thị (孝昭皇后上官氏, 89 TCN - 37 TCN).

    Mông cung nhân (蒙宫人), cùng Lưu Hạ dâm đãng trong cung.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hán Ai Đế** (chữ Hán: 漢哀帝; 26 TCN – 1 TCN) tên thật là **Lưu Hân** (劉欣) là vị Hoàng đế thứ 13 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Chiêu Đế** (chữ Hán: 昭帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ phương Đông. ## Việt Nam * Lý Chiêu Hoàng (đầu đời nhà Trần được gọi là Chiêu Thánh hoàng hậu, sau
**Đổng quý nhân** (chữ Hán: 董貴人, ? - 200) là một phi tần của Hán Hiến Đế Lưu Hiệp và là con gái của Đổng Thừa, một viên quan được coi là trung thần nhà
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Kim Nhật Đê** (chữ Hán: 金日磾, Bính âm: _Jin Mìdī_, 134 TCN - 86 TCN), tên tự **Ông Thúc** (翁叔), là một nhà quân sự, nhà chính trị thời Tây Hán trong lịch sử Trung
**Hán Chiêu Vũ Đế** (_chữ Hán_:漢昭武帝) có thể là những vị quân chủ nhà Hán sau: ## Danh sách *Hán Chiêu Vũ Đế Lưu Thông *Hán Chiêu Vũ Đế Trần Hữu Lượng (gọi tắt theo
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Sử lương đệ** (chữ Hán: 史良娣; ? - 91 TCN), cũng gọi **Lệ hậu** (戾后), là vợ của Lệ Thái tử Lưu Cứ, mẹ đẻ của Điệu hoàng khảo Lưu Tiến và là bà nội
**Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 孝昭帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách * Nhật Bản Hiếu Chiêu Thiên Hoàng * Tây Hán
Giới thiệu sách Bốn tháng sau khi Tư trị thông giám tập 2 ra mắt, NXB Văn học và Nhà sách Tri thức trẻ tiếp tục giới thiệu Tư trị thông giám tập 3 đến
Bốn tháng sau khi Tư trị thông giám tập 2 ra mắt, NXB Văn học và Nhà sách Tri thức trẻ tiếp tục giới thiệu Tư trị thông giám tập 3 đến bạn đọc. Tập
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**Hán Hiến Đế** (_chữ Hán_:漢獻帝) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách *Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, gọi tắt theo thụy hiệu gốc là Hiếu Hiến Đế, vua cuối
**Hán Hoài Đế** (_chữ Hán_:漢懷帝) có thể là những vị hoàng đế nhà Hán sau: ## Danh sách *Đông Hán Hoài Đế Lưu Biện, sau bị Đổng Trác giáng xuống làm Hoằng Nông Hoài Vương,
**Cảnh Chiêu Đế** (chữ Hán: 景昭帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Trung Quốc. ## Danh sách *Ngũ Hồ thập lục quốc Tiền Yên Cảnh Chiêu Đế *Ngũ Hồ
**Vương Chiêu Quân** (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi **Minh phi** (明妃) hoặc **Minh Quân** (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành
[[Tập tin:Passports-assorted.jpg|nhỏ|Hộ chiếu thông thường của Hà Lan, ngoại giao Nepal, hộ chiếu phổ thông của Ba Lan và Hộ chiếu Công vụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] nhỏ|Kiểm soát hộ chiếu tại