✨Hán Minh Đế

Hán Minh Đế

Hán Minh Đế (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy Lưu Trang (劉莊), cũng gọi Hán Hiển Tông (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán, cũng như là Hoàng đế thứ 17 của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ ngày 29 tháng 3 năm 57 đến khi qua đời, tổng cộng 18 năm.

Trong lịch sử nhà Đông Hán, Minh Đế được coi là một Hoàng đế tài giỏi, không chỉ giữ được sự hưng thịnh từ cha mình là Hán Quang Vũ Đế mà còn phát huy cùng phát triển thêm nữa. Khi ông chấp chính, tuy không theo chủ trương dựa vào "nhu" để trị nước như cha mình Hán Quang Vũ Đế mà thi hành sự thống trị hà khắc nhưng vẫn có những công lao nhất định. Ông củng cố chính quyền, thu phục được Hung Nô và Tây Vực, mở đường cho Phật giáo phát triển, mở ra sự giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Tây Á.

Thời kỳ trị vì của ông, cùng với con trai Hán Chương Đế được gọi là Minh Chương chi trị (明章之治).

Thân thế

Thời thơ ấu

Nguyên tên ông là Lưu Dương (劉陽), sinh vào ngày Giáp Thân tháng 5 âm lịch năm Kiến Vũ thứ 4 (28), tức ngày 15 tháng 6 năm 28 dương lịch, là Hoàng tử thứ tư của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú, mẹ là Âm Lệ Hoa, người cùng quê Tân Dã, Nam Dương với Lưu Tú. Ông ra đời khi Quang Vũ Đế đã lên ngôi và đang hoàn thành việc đánh dẹp các chư hầu, thống nhất thiên hạ loạn lạc từ cuối thời nhà Tân. Khi đó, mẹ ông Âm Lệ Hoa vẫn đang là phong vị Quý nhân.

Lưu Dương được hạ sinh tại huyện Nguyên Thị. Đây là một lần sinh nở khó hiểu, vì Âm Lệ Hoa khi đó đã mang thai, thế mà Quang Vũ Đế vẫn kiên quyết đem bà đi theo hành quân, lại ở huyện thôn hẻo lánh hạ sinh Hoàng tử. Khi Lưu Dương vừa sinh, Quang Vũ Đế vui lắm, đánh giá ngũ quan sáng ngời như Đế Nghiêu thời thượng cổ, lại lấy biểu tượng màu đỏ của ánh dương đặt tên Hoàng tử là "Dương", biểu thị sự coi trọng cùng yêu thích của ông đối với đứa con này của Âm Lệ Hoa.

Năm Kiến Vũ thứ 13 (37), Lưu Dương được 10 tuổi, Quang Vũ Đế khen ngợi gọi là Ngô Quý Tử (吴季子), điều này càng làm triều đình chấn động. Vì ở thời Xuân Thu, có Ngô Quý Tử, cũng gọi Ngô Quý Trát, là con trai thứ tư của Ngô vương Ngô Thọ Mộng, vốn dĩ không có tư cách kế thừa Vương vị, nhưng Thọ Mộng lại hi vọng đứa con này kế thừa, cho nên con cả của Thọ Mộng là Ngô Chư Phàn quyết liệt xin nhường Trữ vị cho Quý Tử, nhưng Quý Tử kiên quyết từ chối. Nhìn đây có thể suy ra, Quang Vũ Đế thực sự mong Lưu Dương kế vị, nhưng lại sợ gia tộc họ Âm sẽ là điều liên lụy Lưu Dương, khiến Lưu Dương không thể kế vị. Thế nhưng, Lưu Dương khi nghe xong lại nói:"Ngu dốt vô cùng!", cho thấy thái độ không chịu nhường ai của Lưu Dương.

Lập làm Thái tử

Năm Kiến Vũ thứ 15 (39), ông được phong làm Đông Hải công (東海公). Năm thứ 17 (41), được phong Đông Hải vương (東海王).

Bấy giờ, Hán Quang Vũ đế đã lập con lớn của Hoàng hậu Quách Thánh Thông là Lưu Cương làm Hoàng thái tử. Tuy vậy, Hán Quang Vũ đế rất sủng ái mẹ ông là Âm Quý nhân, cộng thêm lúc trước Âm thị vốn là nguyên phối phu nhân, nên Quang Vũ Đế luôn tìm cách cho hai mẹ con Lưu Dương có được địa vị. Từ đó, Quang Vũ đế có ý định phế ngôi vị Thái tử của Lưu Cương để dành cho Lưu Dương.

Năm Kiến Vũ thứ 17 (41), Quang Vũ Đế Lưu Tú lấy lý do: 「Hoài thế oán đỗi, sổ vi giáo lệnh, bất năng phủ tuần tha tử, huấn trường dị thất; 懷勢怨懟,數違教令,不能撫循他子,訓長異室」, ra chỉ phế truất Quách hậu, lập Âm thị làm Hoàng hậu. Quách hậu sau khi bị phế truất, vẫn được thiện đãi, song Hoàng thái tử Lưu Cương nhận thấy địa vị của mình không chắc chắn, từ vị trí "Đích trưởng tử" bây giờ trở thành "Thứ trưởng tử", danh không chính ngôn không thuận, nên đã nghe theo thầy học Chất Uẩn (郅恽) khuyên can, nhiều lần thỉnh cầu lên Quang Vũ Đế chủ động được từ bỏ ngôi vị. Từ đây, Đông Hải vương Lưu Dương lấy thân phận Đích trưởng tử ở trong triều đình tham dự chính vụ.

Năm Kiến Vũ thứ 19 (43), mùa xuân, Đông Hải vương Lưu Dương bình định Thiền vu Đan Thần (单臣), công lao hiển hách. Tháng 6 năm đó, Quang Vũ Đế lập Lưu Dương làm Hoàng thái tử, cải tên thành Lưu Trang, còn Thái tử Lưu Cương bị giáng phong làm Đông Hải vương. Từ trước, lúc Lưu Cương làm Thái tử, Quang Vũ Đế vẫn mãi không cho Lưu Cương tức vị Đông Cung, nên nghi chế cùng quan viên cần thiết vẫn chưa được thiết lập, từ khi Lưu Trang được sách lập, mới bắt đầu định quy chế triều nghi, cách thức Thái tử ngự triều như thế nào, cũng mới dần được ghi chép rõ ràng.

Năm Kiến Vũ trung nguyên thứ 2 (57), ngày 29 tháng 3, Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú băng hà, Thái tử Lưu Trang lên nối ngôi, tức là Hán Minh đế. Khi đó ông đã 29 tuổi.

Cai trị

Củng cố chính quyền

Thời Hán Quang Vũ Đế, xét thấy Vương Mãng soán vị tất cả là vì ngoại thích, nên Quang Vũ Đế luôn dùng hết mức hạn chế ngoại thích, nhưng đồng thời lại lợi dụng ngoại thích để phòng bị tôn thất. Sau khi Đại tư mã Ngô Hán mất, Quang Vũ Đế muốn dùng cậu em vợ Âm Hưng thay thế chức Đại tư mã mà không thành, thế nhưng vẫn dùng con rể Lương Tùng (梁松) làm phụ chính cho Tân hoàng đế.

Sau khi Lưu Trang kế vị, xây dựng Vân Đài nhị thập bát tướng, mà không đem cha vợ là Mã Viện đưa vào danh sách tranh vẽ. Đối với các đại thần mà nói, điều này chứng tỏ Lưu Trang muốn phát tín hiệu, tiếp tục kiềm chế ngoại thích. Tiếp theo đó, ông bắt đầu đối phó với các đại thần không ủng hộ mình, tức là những nhóm cường hào có thế lực. Lưu Trang tự mình quyết định tập trung quyền lực vào bản thân, nắm toàn bộ quyền bính, không cho phép bất kỳ cường hào hay ngoại thích có thể lợi dụng chính mình. Sau khi suy tính, Lưu Trang trong vài tháng sẽ nắm lấy binh quyền về kinh đô, từng bước khống chế những huyện ở xung quanh kinh đô. Thế lực của ông càng lớn mạnh.

Ông áp dụng ba chiến lược:

  • Một là quy tụ những lão thần trung thành như Đặng Vũ làm Thái phó, Triệu Hý làm Thái úy, hình thành trung tâm quyền lực.
  • Ra sức lôi kéo những anh chị em ủng hộ mình, làm như vậy thì trong họ hàng thân thích sẽ không còn kẻ thù địch nữa. Trong đó phải kể đến em trai cùng mẹ với Lưu Trang là Đông Bình vương Lưu Thương, được phong chức Phiêu Kỵ tướng quân quản lý một đại lượng binh quyền.
  • Ba là đại xá thiên hạ, tiếp tục thi hành chính sách khoan thư sức dân của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú.

Đối với quan viên, Lưu Trang cực kỳ nghiêm khắc. Chính bởi vì phụ thân Quang Vũ Đế thi hành biện pháp chính trị mềm dẻo phù hợp với thời gian đầu, đến khi Lưu Trang lên ngôi đã là không phù hợp, hơn nữa các đại lão thần quy phục chính là vì Quang Vũ Đế, còn bản thân Lưu Trang chưa thực sự được đại bộ phận trong triều ủng hộ cùng quy thuận. Ông tiến hành nghiêm khắc khảo sát cùng truất trắc, mọi việc từ Thượng thư đài quản lý quan viên, Lưu Trang luôn có giám sát chặt chẽ, lại quy định ra điều mục mỗi năm sẽ khảo sát quan lại địa phương, cực kỳ nghiêm ngặt không hề lơi lỏng. Đối với việc tuyển quan lại, Lưu Trang nghiêm khắc dựa vào tài cán, mà không lựa chọn xuất thân. Em gái ông là Quán Đào công chúa Lưu Hồng Phu (劉紅夫) từng xin cho một người con trai làm chức Câu lang, cũng bị Lưu Trang cự tuyệt, chỉ thưởng vàng và tiền mà thôi.

Đối với dân chúng, Lưu Trang quan tâm giúp dân nghèo, người ốm. Đồng thời, ông hạ lệnh giảm tô thuế cho những nơi bị thiên tai mất mùa, mang một phần ruộng công ra phát cho những người không có ruộng. Ông quan tâm sửa sang, đắp thêm đê điều, trọng dụng Vương Cảnh, Vương Ngô vào việc trị thủy. Vương Cảnh đã chỉ huy đào con kênh hơn 1000 dặm từ Vinh Dương đến Hải Khẩu có tác dụng đảm bảo tưới tiêu, phân dòng chống lũ lụt.

Khắc nghiệt thân tộc

Sau khi Lưu Trang kế vị, rất nhiều kẻ âm mưu cướp ngôi. Bởi ông là con trai thứ 4 mà được làm Hoàng thái tử nên rất nhiều anh em của ông cho là không hợp lễ, hầu như đều rất bất mãn. Lúc này em trai của Lưu Trang là Quảng Lăng vương Lưu Kinh cũng đố kỵ với ông.

Quảng Lăng vương Lưu Kinh là em cùng mẹ của Lưu Trang, khi còn trẻ cũng là người có tài cán, do không chịu phục bởi anh trai nên luôn dòm ngó Hoàng vị. Bấy giờ, Lưu Kinh sai người bắt chước nét chữ của anh trai Quách hoàng hậu là Quách Huống, viết thư cho Đông Hải vương Lưu Cương khuyên Cương dấy binh làm loạn, nên noi gương Hán Cao Tổ dấy binh mà đoạt được thiên hạ. Đông Hải vương Lưu Cương là người nhút nhát, sợ hãi chạy đến thanh minh với Lưu Trang, giao nộp bức thư. Sau khi Lưu Trang tra xét biết được là do Lưu Kinh làm thì ông vẫn không trách cứ, chỉ lưu đày Lưu Kinh đến đất phong Quảng Lăng. Đi đất phong, Lưu Kinh hỏi tướng sĩ:"Ta lớn lên giống Tiên đế, mà Tiên đế năm 30 tuổi làm Hoàng đế. Nay ta cũng 30 tuổi, nên hay không khởi binh dây nên cơ nghiệp?". Tướng sĩ hoảng sợ, báo lên cho quận quốc quan viên, tấu trình lên Lưu Trang những lời nói này của Lưu Kinh. Thế nhưng Lưu Trang lại không có truy cứu. Về sau, Lưu Kinh phạm tội trong việc hiến tế, bị quan viên của quận quốc truy cứu, nên sợ hãi mà tự sát.

Năm Vĩnh Bình thứ 13 (70), có người tố cáo Sở vương Lưu Anh mưu phản. Sở vương Lưu Anh là người anh khác mẹ của Lưu Trang, đương khi Lưu Trang còn là Thái tử thì Lưu Anh đối với ông tương đối không tồi, còn giúp Lưu Trang trong rất nhiều công vụ. Nhưng từ khi Lưu Trang kế vị, Lưu Anh luôn tỏ ra bất mãn, cho khắc kim quy ngọc hạc, tích cực chuẩn bị tạo phản. Có người tố cáo Lưu Anh lên, nhưng Lưu Trang không đành lòng nên chỉ lưu đày Lưu Anh. Bị lưu đày, Lưu Anh tự sát, Lưu Trang liền tìm được danh sách kết giao của Lưu Anh đối với các nhân sĩ khác. Lưu Trang dựa vào quyển sổ này của Lưu Anh, ghép tội cho tất cả những hoàng thân, vương hầu, quan lại mà ông muốn báo thù, tạo thành một vụ án lớn liên quan đến mấy ngàn người. Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, biết rằng có rất nhiều người bị oan nhưng Lưu Trang vẫn phê chuẩn. Chỉ một bước mà Lưu Trang đã hoàn thành mục đích của mình.

Sau này, hai người con trai của Quách hoàng hậu là Tế Nam vương Lưu Khang cùng Trung Sơn vương Lưu Yên tụ tập khách khứa, mưu đồ phản nghịch, nhưng tính chất lại không nghiêm trọng như Lưu Kinh cùng Lưu Anh, nên chỉ bị cắt đất phong. Tiếp theo đó, em trai của Âm Thái hậu là Âm Tựu (陰就) có một con trai tên Âm Phong (陰豐), đã lấy em gái út của Lưu Trang là Ly Ấp công chúa Lưu Thụ (劉绶), thế nhưng trong một lần đã ra tay hại chết công chúa. Lưu Trang tức giận, mặc kệ cho lúc đó vẫn còn có Âm Thái hậu, Lưu Trang xử tử Âm Phong. Hai vợ chồng Âm Tựu cũng theo đó mà tự sát.

Hạn chế cường hào

Đối với các cường hào ỷ vào chiến công mà hống hách, Lưu Trang cũng đặc biệt thẳng tay. Khi đó, Đậu Dung (竇融), vốn là hậu duệ 7 đời của Đậu Quảng Quốc (竇廣國) - em trai của Hiếu Văn Đậu hoàng hậu thời Tây Hán. Vì có công lao thời gian đầu khai quốc, nhà họ Đậu leo lên đến vị trí cực cao, khó tránh khỏi gia môn tử đệ cậy quyền mà làm bậy.

Từ thời Quang Vũ Đế, Đậu Dung đã có công mà phong làm đến tận Đại tư không, thuộc hàng Tam công trong triều, lại gia thêm tước hiệu An Phong hầu (安豐侯), thực ấp 4 huyện lớn. Nhà họ Đậu một môn có tới 3 người cưới công chúa: Đậu Mục (竇穆) thú Nội Hoàng công chúa (內黃公主); Đậu Huân (竇勛) thú con gái Đông Hải vương Lưu Cương là Tỉ Dương công chúa (沘陽公主); còn Đậu Cố (竇固) thú con gái thứ hai của Quang Vũ Đế là Niết Dương công chúa Lưu Trung Lễ (劉中禮). Đậu Huân cùng Đậu Hiến, cậy sủng mà kiêu, ỷ thế hiếp người.

Năm Vĩnh Bình thứ 2 (59), con trai của người anh trong họ của Đậu Dung là Đậu Lâm (竇林) nhân tội xử tử, Lưu Trang nhân đó xuống chiếu mắng Đậu Dung, lại dẫn việc Đậu Anh (竇嬰) cùng Điền Phấn (田蚡) khi trước, ép Đậu Dung cáo bệnh mà bị tạm giam trong phủ đệ, tạm treo ấn và dây triện. Năm thứ 5 (61), Đậu Mục vì muốn lấy đất Lục An, bèn giả mạo ý chỉ của Âm Thái hậu, khiến Lục An hầu cưới con gái mình để lấy đất. Sự việc bị phát hiện, Đậu Mục bị bãi miễn, cả nhà họ Đậu trừ Đậu Dung đều bị trục xuất khỏi Lạc Dương mà quay về cố hương Phù Phong. Đậu Dung cũng bị Lưu Trang trách cứ, sợ tới mức phải từ quan, không lâu sau thì chết. Đậu Mục nhân có đại xá, được quay lại kinh sư, nhưng Lưu Trang phái người nghiêm khắc giám thị bọn họ. Cảm thấy chán nản, Đậu Mục có lời oán trách, tìm cách hối lộ quan lại để mở đường công danh, thế là Lưu Trang cho người bắt Đậu Mục cùng hai con trai là Tuyên, Huân vào ngục mà chết ở đấy.

Khắc chế Hung-Tây

thumb|Hành trình khám phá Tây Vực của Ban Siêu.

Thời Hán Quang Vũ Đế còn tại vị, do chính sách bình ổn đóng cửa với bên ngoài đã làm Hung Nô trỗi dậy, chia làm Bắc Hung Nô cùng Nam Hung Nô. Trong đó Nam Hung Nô chủ động yêu cầu nội phụ, Quang Vũ Đế sắc phong Nam Hung Nô, còn thực hiện chính sách Hòa thân. Bắc Hung Nô nhìn Nam Hung được lợi từ nhà Hán, cũng yêu cầu Hòa thân. Quang Vũ Đế vì thế cùng nhóm công khanh thương lượng, nhất thời khó có thể quyết định. Khi ấy, Lưu Trang còn là Thái tử, chủ trương không nên hòa hảo với Bắc Hung Nô, chỉ ra rằng bởi vì Bắc Hung Nô thấy Hán triều cùng Nam Hung Nô giao hảo, sợ bị cô lập, nay đáp ứng yêu cầu của họ, ngược lại càng khiến Bắc Hung Nô không còn tâm thế kiêng dè. Hán Quang Vũ Đế thấy Thái tử nói có lý, bèn không đáp ứng yêu cầu của Bắc Hung Nô.

Từ năm 65 đến năm 72, Lưu Trang bãi bỏ chính sách hà khắc của nhà Tân, đại bộ phận cư dân không còn sự ràng buộc, mối quan hệ giữa Hán và Hung Nô lại trở nên tốt đẹp. Thế nhưng Lưu Trang vẫn còn tâm lý tiêu trừ Bắc Hung Nô để đạt được kết cục toàn vẹn, nên năm Vĩnh Bình thứ 16 (73), Lưu Trang phái Đậu Cố cùng Cảnh Bỉnh chinh phạt Bắc Hung Nô. Sau khi đến Thiên Sơn, Đậu Cố và Cảm Bỉnh đồn trú tại Lương Châu (nay thuộc Vũ Uy, Cam Túc), rồi liên minh với các dân tộc như Nam Hung Nô, Ô Hoàn, Tiên Ty xuất quân tấn công Bắc Hung Nô, liên tiếp giành thắng lợi. Chính quyền của Hô Diễn vương (呼衍王). Nhân đó, Đậu-Cảnh hai vị tướng quân còn đánh đến Xa Sư quốc (車師國), khiến Quốc vương đầu hàng.

Từ năm Kiến Thủy Quốc nguyên niên (9) của nhà Tân đến nay, qua 65 năm, cuối cùng nhà Hán đã khôi phục lại sự liên kết giữa Trung nguyên và Tây Vực. Lưu Trang phái Ban Siêu đi sứ Tây Vực, tuyên truyền chính sách Tây Vực của nhà Hán, để các quốc gia Tây Vực quy thuận nhà Hán. Ban Siêu dẫn 26 người đến Thiện Thiện quốc (鄯善國), tiêu diệt tàn dư Bắc Hung Nô, còn thiết lập lại Tây Vực đô hộ (西域都護). Theo sự điều lệnh của Ban Siêu, các quốc gia Tây Vực phải thần phục, nếu không Ban Siêu sẽ dùng đại quân đội tập kích bất kỳ thành quốc nào không tuân phục.

Thời đại của Lưu Trang, đã tiêu diệt Bắc Hung Nô, tiến đến từng bước hoàn thành việc khống chế Tây Vực của nhà Hán.

Tôn giáo

Lưu Trang tôn trọng Nho giáo, ông cho mở trường Thái học dạy con em quý tộc và tự mình giảng sách cho thái tử Lưu Đát và các thân vương. Ông cũng thường tế lễ Khổng Tử và 72 vị tiên hiền đất Lỗ. Bên cạnh đó, Phật giáo bắt đầu du nhập vào Trung Quốc cũng trong thời kỳ này.

Nói về sự kiện Phật giáo được truyền vào Trung Quốc, có một ý kiến mà xưa nay các sử gia thường công nhận, đó là "Vua Minh Đế nhà Hán nằm mơ, Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc" (Hán Minh cảm mộng, sơ truyền kỳ đạo - Cao Tăng truyện). Các bộ Quốc sử và lịch sử Phật giáo Trung Hoa đều cho rằng khi Lưu Trang nằm mơ thấy một người thân bằng vàng ròng, thân hình tỏa sáng rực rỡ và bay khắp cung điện; rồi sai người đi cầu Pháp, là lúc đạo Phật bắt đầu truyền vào Trung Quốc. Theo Lý hoặc luận, ...Sáng ra, hỏi khắp quần thần, đấy là vị thần tiên nào? Có vị quan Thông nhân tên Phó Nghị tâu: "Thần nghe, bên nước Thiên Trúc có một người tu hành đắc Đạo, gọi là Phật. Vị ấy có thể bay trong hư không, toàn thân tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Có lẽ ấy là vị thần trong mơ"....

Nghe thế, Lưu Trang chợt tỉnh ngộ, rồi sai Sái Âm, Trương Khiên, Vương Tuân, Tần Cảnh, v.v....

Trong thời gian 18 năm ở ngôi, ông sử dùng 2 niên hiệu là:

  • Kiến Vũ Trung Nguyên (建武中元 57)
  • Vĩnh Bình (永平 58 - 75).

Hán Minh Đế có 20 người con, Thái tử Lưu Đát năm đó 18 tuổi lên ngôi, tức là Hán Chương Đế.

Gia quyến

  • Thân phụ: Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú.
  • Thân mẫu: Quang Liệt hoàng hậu Âm Lệ Hoa. Khi Minh Đế lên ngôi, tôn làm Hoàng thái hậu.
  • Hậu phi:

Hậu duệ

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Hán Chất Đế** (chữ Hán: 漢質帝; 138 – 146), tên thật là **Lưu Toản** (劉纘), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 25 của nhà Hán trong
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Minh Đế** (chữ Hán: 明帝) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Đường
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
**Đại vương hậu** () là nguyên phối thê tử của Hán Văn Đế Lưu Hằng khi ông còn là **Đại vương** (代王) nước Đại (196 TCN - 180 TCN), nước chư hầu của nhà Hán.
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 30 – 101), tên tự là **Cảnh Bá**, người huyện Bình Lăng, quận Phù Phong , học giả, bậc đại Nho đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
**Nam Tề Minh Đế** (chữ Hán: 南齊明帝; 452–498), tên húy là **Tiêu Loan** (), tên tự **Cảnh Tê** (景栖), biệt danh **Huyền Độ** (玄度), là vị vua thứ năm của triều Nam Tề trong lịch
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà