Trịnh Hưng (chữ Hán: 郑兴, thế kỷ 1), tự Thiếu Cống, người Khai Phong, Hà Nam, học giả đầu đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bậc đại Nho, được đời sau gọi là Tiên Trịnh để phân biệt với (Hậu) Trịnh Huyền (thế kỷ 2).
Hưởng ứng Lục Lâm
Hưng thuở nhỏ học Công Dương Xuân Thu truyện, đến khi trưởng thành lại theo Bác sĩ Kim Tử Nghiêm học Tả thị truyện, dồn tất cả tâm lực, đã nắm được áo nghĩa của bộ truyện này, được bạn đồng trang lứa đều tôn làm thầy. Đời Tân, Hưng mang theo học trò theo Lưu Hâm học Tả thị truyện; Hâm khen tài của Hưng, khiến ông tham gia biên soạn Điều lệ, Chương cú, Huấn cổ và hiệu đính Tam thống lịch .
Nghĩa quân Lục Lâm tiến vào Trường An, Tư trực Lý Tùng đang làm Hành Thừa tướng sự, lấy Hưng làm Trưởng sử, lệnh cho ông quay về đón Hán Canh Thủy đế. Chư tướng Lục Lâm là người Sơn Đông , đều khuyên Canh Thủy đế ở lại Lạc Dương. Hưng nói: "Bệ hạ dấy từ Kinh Sở , một sớm lên ngôi, trong khi hùng kiệt ở Sơn Tây tranh nhau giết Vương Mãng, mở cửa quan (tức Hàm Cốc quan) đón rước, sao vậy? Đây là thiên hạ chịu khổ vì chánh trị bạo ngược của họ Vương, nên nhớ đức cũ của (Hán) Cao Tổ đấy. Nay lâu ngày không vỗ về, thần sợ bách tính ly tâm, giặc cướp lại nổi lên. Xuân Thu chép: "Tề Tiểu Bạch nhập Tề" mà không xưng hầu, là vì chưa viếng Thái miếu vậy . Nay có kẻ bàn rằng muốn dẹp Xích Mi xong mới vào quan, là không thấy cái gốc mà tranh cái ngọn, chỉ sợ việc phòng thủ của quốc gia sẽ chuyển đến Hàm Cốc , dẫu nằm ở Lạc Dương, làm sao kê cao gối cho được?" Canh Thủy đế nói: "Trẫm đã quyết định sang tây rồi." Hưng được bái làm Gián nghị đại phu, nhận lệnh vỗ về 3 châu Sóc Phương, Lương, Ích; trở về được bái làm Lương Châu thứ sử. Gặp lúc quận Thiên Thủy phát sanh bạo loạn, thái thú bị giết; Thiên Thủy thuộc Lương Châu, nên Hưng bị liên đới, chịu miễn quan.
Nương nhờ Ngỗi Hiêu
Sau khi nghĩa quân Xích Mi vào Trường An, diệt chánh quyền Canh Thủy, khiến đường về miền đông tắc nghẽn, Hưng sang phía tây quy thuận Ngỗi Hiêu, được Hiêu trọng đãi, nhưng Hưng lấy làm xấu hổ vì chịu khuất bởi ông ta, nên xưng bệnh không dậy. Hiêu tự thổi phồng bản thân, muốn sánh mình với Chu Văn vương, bèn cùng chư tướng bàn việc tự lập làm vương; Hưng nghe được thì thuyết phục ông ta rằng: "Xuân Thu có câu 'Miệng không nói lời lẽ trung tín là điêu, tai không nghe hòa nhịp ngũ thanh là điếc.' Gần đây chư tướng tụ hội, chẳng lẽ không ai nói lời trung tín; đại tướng quân nghe lời họ, chẳng lẽ cứ nghe theo mà không suy xét hay sao? Xưa (Chu) Văn vương kế thừa truyền thống đạo đức của tổ tông, lại thêm thông minh tài trí của bản thân, thiên hạ 3 phần chiếm được 2, mà vẫn phụng sự nhà Ân. Đến khi (Chu) Vũ vương nối ngôi, 800 chư hầu không mưu mà họp, đều nói 'Trụ có thể phạt rồi'; nhưng Vũ vương cho rằng chưa rõ mệnh trời, lui binh đợi thời . (Hán) Cao Tổ chinh phạt nhiều năm, vẫn lấy danh nghĩa Bái công điều binh. Nay mỹ đức dẫu sáng tỏ, nhưng không có phúc ấm như nhà Chu; uy vũ dẫu chấn hưng, nhưng chưa có công lao như Cao Tổ, nếu muốn làm việc không thể làm được, sẽ nhanh chóng gặp họa hoạn, chẳng lẽ không phải hay sao? Mong tướng quân xét cho!" Hiêu rốt cục không xưng vương, nhưng đặt thêm nhiều chức vị để tự tôn mình lên. Hưng lại ngăn cản Hiêu rằng: "Chức vụ Trung lang tướng, Thái trung đại phu, Sứ trì tiết đều là quan thuộc của bậc vương giả, chẳng phải chức vụ mà kẻ bề tôi có thể thiết lập. Khổng tử nói: 'Duy khí dữ danh, bất khả dĩ giả nhân.' Không thể đem cho người ta cái gì, cũng không thể lấy đi thứ gì của người ta. Không thêm được gì, còn tổn hại thanh danh, chẳng phải là ý muốn tôn lên đâu." Hiêu tức giận nên thôi.
Đến khi Hiêu sai con trai Ngỗi Tuân làm con tin của Hán Quang Vũ đế, Hưng nhân đó xin về chôn cất cha mẹ, Hiêu không nghe mà còn dời nhà của ông, đối đãi càng tôn trọng. Hưng vào gặp Hiêu, nói: "Khi trước gặp loạn Xích Mi, cho rằng tướng quân là liêu cựu , nên mới dám gởi mình cho bậc minh đức . Nhờ ơn tái sanh, mới giữ được tính mạng. Hưng nghe nói đạo thờ cha mẹ: còn sống thì chăm sóc theo lễ, đã chết thì chôn cất theo lễ, thờ cúng theo lễ, phụng sự sao cho chu toàn, chẳng dám thiếu sót chút gì. Nay vì cha mẹ chưa chôn cất, nên xin Khất hài cốt , còn được tăng trật, dời nhà, như thế là đem cha mẹ đổi lấy việc ở lại với quyền cao chức trọng, vô lễ quá lắm. Tướng quân sao lại làm vậy!?" Hiêu hỏi: "Hiêu không thể giữ lại bạn cũ ư?" Hưng nói: "Tướng quân giữ đất đai của 7 quận , che chở cho người Khương Hồ, lại ủng hộ bản triều, nên ân đức sâu dày, quyền uy cao trọng. Ngài ra biên thùy là sứ quân chuyên quyền, vào triều đình là bề tôi chân vạc (ý nói tam công). Hưng là người bình thường, không dám cứ mãi lánh đời, nhờ tướng quân tiến cử, chẳng lo không được quan chức, theo tướng quân vào chầu, lo gì chẳng gần hoàng đế, như vậy Hưng không có lý do để phản bội tướng quân. Hưng thỉnh cầu là vì cha mẹ, không thể không đi, xin để lại vợ con để một mình quay về, tướng quân sao còn nghi ngờ?" Hiêu nói: "Tốt lắm!" rồi thúc giục Hưng sửa soạn hành trang, cho phép ông đem theo vợ con.
Quy thuận Lưu Tú
Năm Kiến Vũ thứ 6 (30), Hưng đến Lạc Dương, được người từng cùng ông ngụ cư ở Lũng Hữu là Thị ngự sử Đỗ Lâm tiến cử, nên Quang Vũ đế trưng ông làm Thái trung đại phu. Đế từng hỏi Hưng về nghi thức tế Giao, rồi nói: "Ta muốn dùng Sấm để đoán định, như thế nào?" Hưng đáp: "Thần không hiểu Sấm." Đế giận nói: "Khanh không hiểu Sấm, là vì nó sai trái phải không?" Hưng sợ hãi nói: "Thần không học sách vở về Sấm, nên không rõ là sai trái hay không?" Đế mới nguôi giận. Hưng nhiều lần bàn chánh sự, nói có sách mách có chứng, lời lẽ ôn hòa nhã nhặn, nhưng ông không ưa Sấm vĩ nên không được trọng dụng.
Năm thứ 9 (33), Hưng được phụng sử làm Giám quân của Chinh nam tướng quân Sầm Bành, Tích nỗ tướng quân Phó Tuấn ở Tân Hương. Gặp lúc Sầm Bành bị thích khách sát hại, Hưng linh doanh trại của ông ta, rồi đi theo Đại tư mã Ngô Hán tấn công Công Tôn Thuật. Sau khi Thuật chết, Hưng nhận chiếu ở lại Thành Đô. Ít lâu sau, Hưng bị Thị ngự sử đàn hặc trong thời gian phụng sử lại mua riêng nô tỳ, bị kết tội, chịu giáng nhẹ (tả chuyển) làm Liên Chước (huyện) lệnh . Bấy giờ chiến loạn vừa xong, quận huyện tan hoang, Hưng muốn đắp thành quách, sửa lễ giáo để dạy dỗ trăm họ, nhưng lại gặp việc, chịu miễn chức.
Hưng rời Liên Chước thì không chịu làm quan nữa, ngụ cư ở Văn Hương thuộc quận Nam Dương để dạy học, được Tam công nhiều lần vời gọi nhưng đều không nhận lời.
Hưng mất ở nhà, không rõ khi nào. Con là Trịnh Huề, cố sự được chép phụ vào liệt truyện của cha.
Đánh giá
Hưng chuộng Cổ học, nắm rõ Tả thị truyện, Chu lễ, có sở trường về Lịch số; được xếp vào nhóm tông sư đầu đời Đông Hán, tề danh với Đỗ Lâm, Hoàn Đàm, Vệ Hoành. Nhưng Hưng không ủng hộ niềm tin của Quang Vũ đế đối với Sấm vĩ, nên không được trọng dụng.
Tương truyền người học tập Tả thị truyện phần nhiều hưởng ứng thuyết pháp của Hưng, riêng Giả Quỳ được truyền thụ bởi cha là Giả Huy, lập nên 1 phái, đời sau nhắc đến Tả thị truyện thì không thể bỏ qua học thuyết của Trịnh, Giả. Sử gia Phạm Diệp khẳng định vị thế tông sư của Trịnh, Giả đứng vững đến tận đời Lưu Tống.
Trước tác của Hưng ngày nay đều không còn. Trịnh Huyền chú giải Chu lễ đã dẫn một số câu từ Chu lễ giải cổ của Hưng; Mã Quốc Hàn thu nhặt từ nhiều tài liệu mới có được Chu lễ Trịnh đại phu (Hưng) giải cổ 1 quyển, đưa vào bộ tùng thư Ngọc Hàm sơn phòng tập dật thư.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trịnh Hưng** (chữ Hán: 郑兴, thế kỷ 1), tự **Thiếu Cống**, người Khai Phong, Hà Nam, học giả đầu đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bậc đại Nho, được đời sau
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 30 – 101), tên tự là **Cảnh Bá**, người huyện Bình Lăng, quận Phù Phong , học giả, bậc đại Nho đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Doãn Mẫn** (chữ Hán: 尹敏, ? – ?), tự Ấu Quý, người huyện Đổ Dương, quận Nam Dương , học giả, quan viên đầu đời Đông Hán. ## Khởi nghiệp Thiếu thời Mẫn là Chư
**Dương Hùng** (chữ Hán: 扬雄, 53 TCN – 18), tên tự là **Tử Vân**, người Thành Đô, Thục Quận, là nhà văn, nhà triết học cuối đời Tây Hán, đầu đời Tân. Ông được Tam
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**_Crime Scene_** (Hangul: 크라임씬) là một chương trình tạp kỹ của Hàn Quốc với các thành viên Hong Jin Ho, Park Ji-yoon, NS Yoon-G, Jun Hyun-moo, Lim Bang-geul và Kang Yong-suk là người chơi mùa
**_Hừng đông_** là album phòng thu đầu tay của nghệ sĩ vĩ cầm Việt Nam Hoàng Rob. ## Bối cảnh và phát hành Từ năm 2014, Khắc Hưng và Hoàng Rob đã có dự định
Phiên bản gốc của chương trình **_I Can See Your Voice_** (tạm dịch: **_Tôi có thể thấy giọng hát của bạn_**, viết tắt: **_ICSYV_**) (tiếng Triều Tiên - ) là một chương trình truyền hình
**Đổng Trác** (chữ Hán: 董卓; [132] - 22 tháng 5 năm [192]), tự **Trọng Dĩnh** (仲穎), là một tướng quân phiệt và quyền thần nhà Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung
**Lưu Khánh** (chữ Hán: 劉慶; 78 - 1 tháng 2, 107), cũng gọi **Thanh Hà Hiếu vương** (清河孝王), một hoàng tử nhà Hán, là con trưởng của Hán Chương Đế Lưu Đát và là cha
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Trịnh Cương** (chữ Hán: 鄭棡, 9 tháng 7 năm 1686 – 20 tháng 12 năm 1729), còn có tên khác là **Trịnh Chù**, thụy hiệu là **Hy Tổ Nhân vương** (禧祖仁王), là vị chúa Trịnh
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
**Hàn vương Tín** (Hán văn phồn thể: 韓王信, giản thể: 韩王信; ? – 196 TCN) là vua chư hầu nước Hàn thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Vì ông trùng tên và sống
**Trịnh** (Phồn thể: 鄭國; giản thể: 郑国) là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ quốc gia này nằm trên tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
Những cô gái mặc _[[Hán phục_.]]**Phong trào Phục hưng Hán phục** (; Hán-Việt: _Hán phục vận động_) là một phong trào xã hội tìm cách hồi sinh thời trang cổ của người Hán, được phát
, còn được biết đến với nghệ danh **Cheng Xiao** hay **Seongso** (), là một nữ ca sĩ, vũ công và diễn viên người Trung Quốc. Cô là cựu thành viên nhóm nhạc thần tượng
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
Cao sâm là sản phẩm được tạo thành sau khi chiết xuất những tinh túy của củ6 năm tuổi chất lượng tốt nhất. Những tinh chất của củ sâm sau quá trình chế biến sẽ
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Trịnh Kinh** (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên **Cẩm**, tự **Hiền Chi**, **Nguyên Chi**, hiệu **Thức Thiên**, biệt danh **Cẩm Xá**, là con trưởng của
**_2 ngày 1 đêm_** (viết tắt: **_2N1Đ_**) là chương trình truyền hình trải nghiệm thực tế do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Đông Tây Promotion phối hợp thực hiện,
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Trịnh Giang** (chữ Hán: 鄭杠, 14 tháng 10 năm 1711 – 30 tháng 12 năm 1762), còn có tên khác là **Trịnh Khương** (鄭橿), hay **Trịnh Cường**, thụy hiệu là **Dụ Tổ Thuận vương** (裕祖順王),
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
**Đông Kinh Nghĩa Thục** (; lập ra từ tháng 3 năm 1907 và chấm dứt vào tháng 11 năm 1907) là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Trịnh Xuân Thanh** (sinh ngày 13 tháng 2 năm 1966 tại Hà Nội) từng là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ chức Tỉnh ủy viên (từ năm 2015), Phó Chủ tịch phụ trách
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều