✨Hàn Quốc
Đại Hàn Dân Quốc, gọi tắt là Hàn Quốc, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên qua Khu phi quân sự vĩ tuyến 38. Phía tây là biển Hoàng Hải, phía nam là biển Hoa Đông còn phía đông là biển Nhật Bản.
Bán đảo Triều Tiên xuất hiện con người sinh sống từ thời kỳ đồ đá cũ với nhà nước Cổ Triều Tiên. Sau sự thống nhất của Tam Quốc thành Tân La và Bột Hải, bán đảo được cai trị bởi các triều đại Cao Ly, Joseon và Đế quốc Đại Hàn. Năm 1910, Đế quốc Nhật Bản sáp nhập bán đảo. Sự chiếm đóng của Nhật kết thúc sau khi đầu hàng Đồng Minh trong Thế chiến II, bán đảo sau đó bị chia cắt thành hai khu vực; phía bắc do Liên Xô chiếm đóng và phía nam do Hoa Kỳ chiếm đóng. Sau khi các cuộc đàm phán về tái thống nhất thất bại, khu vực phía nam trở thành nhà nước Đại Hàn Dân Quốc vào tháng 8 năm 1948 trong khi khu vực phía bắc trở thành nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vào tháng sau đó. Năm 1950, với sự hậu thuẫn của Liên Xô, Bắc Triều Tiên phát động chiến tranh xâm lược Hàn Quốc. Liên Hợp Quốc, lãnh đạo bởi Hoa Kỳ, đã can thiệp để hỗ trợ Hàn Quốc, trong khi Trung Quốc tham chiến hỗ trợ cho Bắc Triều Tiên. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1953, Hàn Quốc tập trung khôi phục kinh tế và phát triển nhanh chóng. Năm 1987, Phong Trào Dân Chủ Tháng 6 đã chấm dứt chế độ độc tài cuối cùng.
Hàn Quốc ngày nay là nước công nghiệp thu nhập cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó là những thách thức như sự thù địch với Bắc Triều Tiên, tỷ lệ sinh thấp và bất bình đẳng thu nhập.
Tên gọi
Từ năm 1392-1897 là thời kỳ của nhà Triều Tiên và tên gọi "Triều Tiên" được dùng làm quốc hiệu. Giai đoạn 1897-1910, phong trào Đông Học nổ ra kết hợp với cải cách Gwangmu của vua Cao Tông, bán đảo chuyển sang dùng danh xưng "Đế quốc Đại Hàn". Giai đoạn 1910-1945, bán đảo là một phần trong lãnh thổ Đế quốc Nhật Bản. Sau chia cắt, miền Bắc gọi chính thể của mình là "Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên", miền Nam chọn quốc hiệu "Đại Hàn Dân Quốc", gọi tắt là "Hàn Quốc". Trong đó, chữ "Dân Quốc" được lấy theo quốc hiệu của Trung Hoa Dân Quốc, khi dịch sang các ngôn ngữ phương Tây thì cũng tương đương với "Cộng hoà Quốc" (nước Cộng hoà).
Tên gọi của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên đều được dịch giống nhau khi sử dụng quốc tế là "Korea", ngoài ra, trong tiếng Pháp dịch là "Corée", tiếng Nga dịch là "Корея" (Koreya) hay tiếng Tây Ban Nha dịch là "Corea",... Cách dùng này bắt nguồn từ quốc hiệu "Goryeo" (Cao Ly) của nhà nước từng tồn tại trên bán đảo từ năm 918 đến 1392. Trong thời kỳ này, tên gọi đó đã thông qua các thương nhân người Ả Rập và Ba Tư để tới châu Âu.
Hàn Quốc thường yêu cầu các đơn vị truyền thông cùng cơ quan quốc tế khi đề cập tới họ thì hạn chế dùng "South Korea" mà phải sử dụng quốc hiệu "Republic of Korea" hoặc "Korea Republic", nếu gọi ngắn thì dùng "Korea". Tuy nhiên, "South Korea" lại khá phổ biến vì được sử dụng để phân biệt với "North Korea" (Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên).
Trước năm 1975 tại Việt Nam, báo chí và truyền thông của Việt Nam Cộng hòa (trước đó là Quốc gia Việt Nam) gọi chính thể này là "Đại Hàn" hoặc "Nam Hàn". Sau năm 1975, truyền thông và sách báo của nhà nước Việt Nam thống nhất sử dụng tên gọi "Nam Triều Tiên".
Ngày 23 tháng 3 năm 1994, bằng công hàm số KEV-398 gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam, đại sứ quán Hàn Quốc đề nghị phía Việt Nam gọi chính thể của mình là "Đại Hàn Dân Quốc", gọi tắt là "Hàn Quốc" (từ "Hàn" ở đây không phải "Lạnh" mà có nghĩa là "Lớn"), không sử dụng các tên cũ như "Cộng hoà Triều Tiên" hoặc "Nam Triều Tiên" nữa vì "Triều Tiên" gợi nhắc đến danh xưng của Bắc Triều Tiên. Đáp lại, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra công văn số 733/ĐBA-NG ngày 21 tháng 4 năm 1994 gửi tất cả các cơ quan bộ, ngành, tổng cục thông tin, truyền thông cùng ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam yêu cầu: "Từ nay gọi chính thể Nam Triều Tiên là "Đại Hàn Dân Quốc", gọi tắt là "Hàn Quốc", không dùng các tên gọi Cộng hoà Triều Tiên, Nam Triều Tiên hay Nam Hàn nữa". Danh xưng "Nam Triều Tiên" hiện nay chỉ còn được truyền thông của phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên sử dụng do nước này không công nhận tuyên bố chủ quyền của Hàn Quốc.
Lịch sử
Thời kỳ cổ đại
Nghiên cứu khoa học kết hợp với khai quật khảo cổ học cho thấy rằng bán đảo Triều Tiên đã có xuất hiện con người sinh sống ngay từ thời đại đồ đá cũ. Di chỉ khảo cổ học đầu tiên cùng các địa điểm định cư sớm nhất của con người tại đây trong thời kỳ Jeulmun và thời kỳ Mumun được phát hiện ở phía nam bán đảo.
Lịch sử Triều Tiên cổ đại bắt đầu với sự thành lập của nhà nước Cổ Triều Tiên bởi Đàn Quân vào khoảng năm 2333 TCN; sau đó là giai đoạn tiền Tam Quốc với hàng loạt bộ lạc, tiểu quốc nhỏ phân tranh. Chế độ quân chủ của các quốc gia trên bán đảo có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc khi quyền cai trị thuộc về các triều đại phong kiến chuyên chế kế tập. Phật giáo cùng Đạo giáo có ảnh hưởng lớn và Nho giáo được lấy làm nền tảng tư tưởng gốc rễ. Trong thời kỳ Tam Quốc, dưới triều đại Quảng Khai Thổ Thái Vương của Cao Câu Ly, lãnh thổ của ông được mở rộng sau loạt chiến dịch quân sự nhằm chinh phạt các tiểu quốc thành công, hình thành nên một quốc gia rộng lớn. Sau Tam Quốc, Nam-Bắc Quốc, hậu Tam Quốc, bán đảo tiếp tục trải qua triều đại Cao Ly, nhà Triều Tiên và cuối cùng là Đế quốc Đại Hàn.
Thời kỳ cận đại
Vào giai đoạn cuối của nhà Triều Tiên, Hoàng tộc dưới quyền chi phối và lãnh đạo chuyên chính của Hưng Tuyên Đại Viện Quân đã thực thi chính sách "Bế quan tỏa cảng", tự cô lập đất nước cũng như thẳng tay đàn áp Thiên Chúa giáo. Trong khi đó tại quốc gia láng giềng Nhật Bản, sau thất bại của Mạc phủ Tokugawa trong chiến tranh Mậu Thìn, thành công của công cuộc Minh Trị Duy tân, chấm dứt Tỏa Quốc cùng chiến thắng trong các cuộc chiến tranh Thanh–Nhật, chiến tranh Nga–Nhật và chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở thành một thế lực mới, dần thay thế phương Bắc mở rộng ảnh hưởng lên Triều Tiên. Về chính trị, ngày 8 tháng 10 năm 1895; giới cầm quyền Nhật giật dây vụ ám sát Hoàng hậu Minh Thành. Về quân sự, Hải quân Nhật Bản sử dụng "Ngoại giao pháo hạm" - mở đầu bằng trận Ganghwa (20/9/1875), gây áp lực buộc Triều Tiên mở cửa các hải cảng đồng thời nhanh tay kiểm soát vùng lãnh thổ này trước các đế quốc phương Tây - khởi đầu bằng Điều ước bất bình đẳng Nhật–Triều (26/2/1876). Sau sự kiện Thủ tướng Itō Hirobumi bị nhà hoạt động độc lập An Jung-geun ám sát tại nhà ga Cáp Nhĩ Tân (26/10/1909), Nhật Bản quyết định đẩy nhanh quá trình sáp nhập. Quân phiệt Nhật cùng với các lực lượng tay sai, nội gián bản địa do chính phủ Yi Wan-yong đứng đầu ép vua Thuần Tông ký kết Nhật–Triều Tịnh Hợp điều ước (22/8/1910) (Điều ước Sáp nhập hay "Hiệp ước quốc sỉ" - theo cách gọi của các thế hệ người Hàn Quốc sau này), trực tiếp kiểm soát bán đảo trong vòng 35 năm từ 1910-1945, thời kỳ này gọi là Triều Tiên thuộc Nhật.
Thời kỳ hiện đại
Thành lập Dân Quốc
thumb|Thay đổi lãnh thổ hai miền Triều Tiên sau chiến tranh|221x221px Triều Tiên được Đồng Minh giải phóng trong Thế chiến II. Bất chấp kế hoạch ban đầu về một Triều Tiên thống nhất trong Tuyên bố Cairo năm 1943, bán đảo bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự bởi Liên Xô và Hoa Kỳ. Liên Xô chiếm đóng miền Bắc cho đến vĩ tuyến 38 trong khi Hoa Kỳ chiếm đóng từ đó về phía Nam. Hai siêu cường không thể đạt được đồng thuận về việc áp dụng Đồng uỷ trị. Tháng 11 năm 1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đề ra giải pháp nhằm tiến hành tổng tuyển cử tại Triều Tiên dưới sự hỗ trợ của Ủy ban Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, các chính phủ lâm thời của hai miền đã khước từ việc này. Liên Hợp Quốc tiếp tục đưa ra một giải pháp khác kêu gọi bầu cử tại từng địa phương nhưng trước đó, những hoạt động riêng rẽ đầu tiên đã được tiến hành độc lập ngay từ ngày 10 tháng 5 năm 1948 ở các tỉnh phía Nam vĩ tuyến 38, điều này dẫn tới việc thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Đáp lại, miền Bắc cũng tiến hành tổ chức bầu cử, chính phủ và nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đời do Kim Nhật Thành lãnh đạo. Mỗi bên đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn bộ bán đảo. Trong khi Bắc Triều Tiên chịu sự ảnh hưởng của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và được sự hậu thuẫn từ phía Liên Xô, Trung Quốc và Khối các quốc gia xã hội chủ nghĩa thì Hàn Quốc được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Điều này khiến cho những mâu thuẫn giữa hai miền vốn ở trong tình trạng căng thẳng, nay càng trở nên nghiêm trọng và gay gắt. Xung đột gia tăng dẫn tới chiến tranh Triều Tiên khi quân đội Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, cáo buộc Hàn Quốc vi phạm trước và tổng tấn công. Hoa Kỳ cùng Liên Hợp Quốc tham chiến hỗ trợ Hàn Quốc còn hậu thuẫn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là Liên Xô, Trung Quốc và Khối Xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến kéo dài tới ngày 27 tháng 7 năm 1953 thì tạm dừng sau khi các bên ký kết Thoả thuận đình chiến. Chiến tranh Triều Tiên khiến cho hơn 3 triệu người thiệt mạng và hàng chục triệu người khác bị ảnh hưởng. Rất nhiều thường dân, binh lính, quân nhân bị thương tật, một số khác thì mất nhà cửa hoặc chia lìa vĩnh viễn người thân trong gia đình. Cuộc chiến tiêu tốn của các bên số tiền lên tới hơn 30 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm những năm 1950-53, tương đương khoảng 325 tỷ theo thời giá ước đoán hiện nay.
Sau chiến tranh, Bắc Triều Tiên tuyên bố không công nhận chính phủ Hàn Quốc, phía Hàn Quốc cũng coi chính phủ của mình là chính thể có chủ quyền hợp pháp duy nhất trên toàn bộ bán đảo đồng thời không công nhận Bắc Triều Tiên. Những quan điểm cứng nhắc, không nhân nhượng lẫn nhau khiến cho quá trình hòa giải giữa hai bên không thể thực hiện được cho đến thập niên 1960. Đầu thập niên 1970, quan hệ hai miền dần cải thiện, hai bên chính thức công nhận chính phủ của nhau. Năm 1991, hai nhà nước được mời gia nhập Liên Hợp Quốc cùng một lúc. Hàn Quốc là quốc gia đầu tư kinh tế và hoạt động chủ yếu, tích cực nhất trong chiến dịch viện trợ lương thực góp phần giúp Bắc Triều Tiên vượt qua nạn đói thập niên 1990 thông qua Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hợp Quốc.
Độc tài quân sự
Quá trình dân chủ hoá của Hàn Quốc bị thấm đẫm bởi máu, xung đột và bạo lực. Lý Thừa Vãn sau khi nắm quyền lực đã cho thực thi một chính sách cai trị độc tài, đàn áp quyết liệt, thẳng tay đối với những người cánh tả, thậm chí còn sát hại không ít nhân vật bất đồng chính kiến. Bên cạnh đó, bộ máy quản lý đất nước do ông xây dựng bị nạn tham nhũng đục khoét, tàn phá nặng nề, kinh tế trì trệ, đất nước phát triển chậm chạp. Năm 1960, Lý Thừa Vãn đối mặt làn sóng bất bình cực lớn của người dân. Cuối cùng, ông phải rời bỏ nhiệm sở sau cách mạng 19 tháng 4, lên máy bay chạy sang Honolulu và sống tị nạn tại đây cho tới cuối đời. Hiện nay, dư luận cùng giới chuyên gia ở Hàn Quốc vẫn đánh giá về Lý Thừa Vãn rất tiêu cực.
Chính phủ dân sự ngắn ngủi kế nhiệm của Tổng thống Yun Bo-seon cùng Phó Tổng thống Chang Myon bị lật đổ sau cuộc đảo chính của tướng Park Chung-hee vào ngày 16 tháng 5 năm 1961. Năm 1963, Park Chung-hee kiểm soát chính phủ và chính thức lên nắm quyền tổng thống, trở thành nhà lãnh đạo thứ ba cũng như độc tài thứ hai của Hàn Quốc. thumb|239x239px|Hội trường Tưởng niệm ở Nghĩa trang Dân chủ 18 tháng 5, nơi chôn cất thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju Năm 1980, tướng Chun Doo-hwan được một hội đồng quân sự bầu lên làm tổng thống. Ngày 18 tháng 5 năm 1980, tại thành phố Gwangju - thủ phủ của tỉnh Jeolla Nam đã xảy ra Phong trào dân chủ Gwangju - khi người dân địa phương tổ chức đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát để chống lại lực lượng cảnh sát của chính phủ Chun Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp tàn bạo một cuộc biểu tình ôn hòa đòi cải cách nền dân chủ cũng như đòi quyền tự do bầu cử của sinh viên địa phương. Quân đội với vũ khí sát thương hạng nặng đã được điều động đến. 4 giờ sáng ngày 27 tháng 5 năm 1980, quân đội từ 5 hướng tiến vào trung tâm thành phố và đánh bại hoàn toàn lực lượng dân quân chỉ trong vòng 90 phút. Trong sự kiện này, quân đội Hàn Quốc được cho là đã nổ súng bắn chết khoảng từ 1.000 tới 2.000 thường dân.
Sau khi đàn áp hoàn toàn cuộc nổi dậy của người dân trong cuộc thảm sát Gwangju, Chun Doo-hwan trở thành nhà lãnh đạo thứ năm cũng như độc tài thứ ba trong lịch sử chính trị Hàn Quốc. Cũng giống như người tiền nhiệm Park Chung-hee, Chun bắt đầu tiến hành kiểm soát đất nước một cách chặt chẽ hơn, ông ta loại bỏ hoàn toàn các chính trị gia đối lập khỏi chính trường và tiến hành thanh lọc xã hội theo quy mô lớn. Đồng thời, chính phủ Chun Doo-hwan thiết lập một cơ sở đào tạo quân sự đặc biệt mang tên gọi "Trại giáo dục Samcheong", để tiến hành chương trình "giáo dục thanh lọc". Khoảng hơn 40 nghìn người bị bắt đưa đến các cơ sở của trại này. Số liệu thống kê về sau cho thấy có 54 người đã bị giết trong quá trình giam giữ và 397 người khác chết sau đó. Cuối cùng, Chun nhanh chóng được tổng thống Kim Young-sam ân xá với lý do "thúc đẩy đoàn kết dân tộc" vào ngày 22 tháng 12 năm 1997. Hàn Quốc được mời trở thành một thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc vào năm 1991. thumb|250x250px|Tổng thống Kim Dae-jung đã thúc đẩy dân chủ, nhân quyền ở trong nước kèm theo các chính sách hòa giải với Bắc Triều Tiên Tuy đạt được nhiều tiến bộ trong quá trình dân chủ hóa, chính trường Hàn Quốc vẫn chưa bao giờ hết khốc liệt hay có dấu hiệu hạ nhiệt, các đời tổng thống tiếp theo là Roh Tae-woo (1987), Kim Young-sam (1992) và Kim Dae-jung (1998) đều để lại nhiều dấu ấn với cả tích cực lẫn tiêu cực. Trong đó, vị tổng thống thứ sáu - Roh Tae-woo bị kết án tù vì các tội danh liên quan đến hối lộ, tham nhũng. Tuy vậy, sang đến năm 2000, tổng thống Kim Dae-jung gây tiếng vang lớn khi được trao giải Nobel Hoà Bình vì những nỗ lực trong việc bình thường hoá quan hệ với CHDCND Triều Tiên. Vào tháng 6 năm 2000, hội nghị thượng đỉnh liên Triều đã diễn ra tại Bình Nhưỡng, thủ đô của CHDCND Triều Tiên, hội nghị là thành quả tích cực sau nhiều năm Hàn Quốc thực thi chính sách Ánh Dương với CHDCND Triều Tiên do tổng thống Kim Dae-jung đề xướng. Năm 2003, học trò của ông, Roh Moo-hyun kế nhiệm. Thế nhưng sau đó, đến lượt Roh cũng phải đối mặt với lời buộc tội tham nhũng, ông tự sát vào ngày 23 tháng 5 năm 2009 trong khi các cuộc điều tra vẫn đang tiếp diễn, do vậy, nhiều người nghi ngờ rằng vụ tự sát này là do sức ép đến từ các thế lực khác.
Sau đó là Lee Myung-bak làm tổng thống trong giai đoạn 2008-13. Năm 2018, Lee bị bắt giam với cáo buộc ít nhất 12 tội danh, trong đó có việc nhận hối lộ 11 tỷ Won từ Cơ quan Tình báo Quốc gia cùng nhiều doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó là những cáo buộc về trốn thuế và chiếm đoạt 35 tỷ Won từ một công ty mà Lee bí mật sở hữu. Vào tháng 3 năm 2019, Lee được cho phép tại ngoại vì những lo ngại liên quan đến vấn đề sức khỏe. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 2 năm 2020, tòa án quận trung tâm Seoul đã chính thức ra bản án tuyên phạt Lee 17 năm tù giam cùng 13 tỷ Won tiền đền bù.
Tiếp đến là Park Geun-hye, bà là nữ tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc và dân cử đầu tiên ở Đông Á. Tuy nhiên, tới đầu năm 2017, đến lượt Park Geun-hye cũng bị quốc hội nước này phế truất và bắt giam với các cáo buộc tiết lộ bí mật quốc gia, nhận hối lộ, để người không có bất kỳ chức vụ, thẩm quyền gì là Choi Soon-sil (bạn thân) can thiệp bất hợp pháp vào các tài liệu mật cũng như công việc nội bộ của chính phủ, lạm quyền và tham nhũng.
Như vậy, tính đến năm 2018, trong 11 đời tổng thống Hàn Quốc có 1 người bị ám sát, 1 người tự sát do bị điều tra, 1 người bị đảo chính phải chạy ra nước ngoài tị nạn, 4 người khác bị bắt giam do các tội danh liên quan đến tham nhũng, hối lộ. Những vụ bê bối liên quan đến giới chính trị hay lãnh đạo các doanh nghiệp kinh tế lớn là vấn nạn gây nhức nhối tại quốc gia này bên cạnh sự gia tăng của các loại tội phạm tình dục.
Tái thống nhất với Bắc Triều Tiên là chủ đề được bàn luận sôi nổi ở Hàn Quốc, nhưng cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ hiệp định hoà bình chính thức nào được ký kết. Luật an ninh quốc gia Hàn Quốc không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ Bắc Triều Tiên, những ai tỏ thái độ ủng hộ, có các hành động tuyên truyền, diễn thuyết, phát biểu ca ngợi Bắc Triều Tiên sẽ bị trục xuất khỏi nước này nếu là người nước ngoài hoặc kết án 7 năm tù giam nếu là công dân Hàn Quốc, tự ý tổ chức các chuyến đi du lịch, đến thăm Bắc Triều Tiên mà không được sự cho phép của chính phủ có thể bị phạt tối đa lên tới 10 năm tù giam. Tổng thống Roh Moo-hyun từng nghĩ tới việc dỡ bỏ luật này, nhưng hiện tại điều đó vẫn chưa được thực thi còn tổng thống Moon Jae-in hy vọng hai miền sẽ tái thống nhất trong hòa bình - sớm nhất là vào năm 2045.
Khôi phục và phát triển kinh tế
Chính sách khắc khổ
thumb|240x240px|Tăng trưởng [[Thu nhập quốc dân|GNI bình quân đầu người giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên (1950-2016)]] Sau chiến tranh Triều Tiên, vào giai đoạn trước khi Park Chung-hee lên nắm quyền vào năm 1961, kinh tế Hàn Quốc khá nghèo nàn với thu nhập bình quân đầu người ít hơn 100 USD mỗi năm. Hàn Quốc thời điểm đó bị xếp hạng là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Ở giai đoạn này, kinh tế Hàn Quốc cơ bản phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ. Khi đó, viện trợ từ chính phủ Mỹ chiếm phần lớn trong tổng ngân sách chính phủ cũng như tổng sản lượng quốc gia (GNP) của Hàn Quốc. Dù cho một số khu vực của đất nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa từ thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản nhưng nhìn chung vào đầu thập niên 60, Hàn Quốc vẫn là một nước thuần nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển hơn so với Bắc Triều Tiên - vốn không những rất giàu có về tài nguyên thiên nhiên mà còn được Liên Xô, Trung Quốc cùng khối các quốc gia xã hội chủ nghĩa viện trợ, giúp đỡ.
Để xóa bỏ đói nghèo và tái tạo động lực phát triển, Park thành lập Hội đồng Tối cao phụ trách Tái thiết Quốc gia, mang kỷ luật quân đội và chính sách cải cách kiểu độc tài áp dụng trên toàn quốc. Tham vọng của Park là chấm dứt tình trạng lạc hậu ở Hàn Quốc.
Sau khi đảo chính thành công để lên nắm chính quyền vào tháng 7 năm 1961, Park tuyên bố bắt đầu tiến trình "dọn rác" để thanh lọc xã hội. Một trong những việc đầu tiên ông làm là đem tử hình 24 quan chức và doanh nhân vì tội tham nhũng. Toàn xã hội "thắt lưng buộc bụng". Một số ngành do quân đội trực tiếp xây dựng và quản lý. Du học sinh trước khi ra nước ngoài học tập phải cam kết không ở lại nước ngoài mà phải về nước phục vụ dù muốn hay không, những ai đã học xong mà không quay về nước thì gia đình họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề.thumb|158x158px|Xưởng đóng tàu của Hyundai ở Ulsan (1976)|trái Park Chung-hee chuyển chiến lược kinh tế của đất nước từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Ông thành lập một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế để điều hành nền kinh tế đất nước. Lấy những "Kế hoạch kinh tế 5 năm" vốn đã từng rất thành công của Liên Xô trước đây làm kiểu mẫu, Park đề ra "Kế hoạch 5 năm" đầu tiên vào năm 1962, nhiệm vụ chủ chốt của kế hoạch này là tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích xuất khẩu. Ông tuyên bố thành phố Ulsan sẽ là khu vực phát triển công nghiệp tiên phong đặc biệt của đất nước. Ngay sau đó, Hyundai - một trong những tập đoàn lớn đầu tiên của Hàn Quốc đã nhanh chân tận dụng vị thế đặc biệt của Ulsan để biến thành phố này trở thành nơi đặt các nhà máy sản xuất chính.
Hầu hết các nhà sử học đều coi "Kế hoạch 5 năm đầu tiên" là điểm cất cánh của nền kinh tế Hàn Quốc. Từ năm 1962 đến năm 1966, tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc đạt 7,6%. Sản lượng công nghiệp xuất khẩu tăng trên 30% mỗi năm cùng sản lượng sản xuất tăng trên 15% mỗi năm. Các chính sách phát triển kinh tế của Park được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc và mong muốn giành quyền tự chủ cho đất nước. Do đó, ông chủ trương tự lực; không để cho nền kinh tế bị phụ thuộc và chi phối bởi nước ngoài. Ban đầu, Park ra sức hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo lời khuyên từ giới chuyên môn, ông bắt đầu dần nới lỏng những hạn chế này. Mặc dù vậy, các công ty nước ngoài khi đó muốn đầu tư vào thị trường Hàn Quốc thì bắt buộc phải tiến hành chuyển giao, chia sẻ công nghệ ở một mức độ nhất định cho doanh nghiệp trong nước. Năm 1966, đạo luật kích thích vốn đầu tư nước ngoài được chính phủ Park thông qua đã cung cấp thêm những ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư đồng thời hợp lý hóa quy trình này vào Hàn Quốc. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1967-1971) tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khuyến khích chuyển giao công nghệ cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng. Từ năm 1973, kinh tế Hàn Quốc đặt trọng tâm chủ yếu vào 7 ngành chính bao gồm: thép, hóa chất, luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu, ô tô và điện tử. Giai đoạn phát triển công nghiệp cao độ này tập trung tại các thành phố nhỏ nằm ở phía đông nam đất nước.
Kế hoạch phát triển kinh tế của Park Chung-hee là dựa vào xuất khẩu nhờ giá thành thấp. Chi phí sản xuất được cố tình hạ thấp đến mức tối thiểu bằng cách toàn dân phải cam chịu gian khổ, tiêu dùng hết sức tiết kiệm. Để người lao động có thể sống với mức lương rất thấp, chính quyền đã áp dụng biện pháp bảo hộ, giữ giá những sản phẩm nông nghiệp cũng luôn ở mức rất thấp. Cuối thập niên 70, nền công nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất được máy thu hình màu nhưng chỉ để xuất khẩu. Các sản phẩm xa xỉ như mỹ phẩm, quần áo thời trang cho đến xe hơi cao cấp,... đều bị hạn chế nhập khẩu ở mức tối đa để nguồn vốn không bị chảy ra nước ngoài. Từ năm 1962, chính sách toàn quốc thắt lưng buộc bụng được áp dụng. Thời gian lao động kéo dài với điều kiện kém cùng tiền lương thấp. Những phản kháng đòi hỏi cải thiện điều kiện sống đều bị chính quyền thẳng tay đàn áp.
Tham chiến tại Việt Nam
thumb|223x223px|Binh sĩ Hàn Quốc ở Việt Nam Park Chung-hee đã gửi hơn 325.000 quân nhân sang Nam Việt Nam chiến đấu cùng Hoa Kỳ và Khối đồng minh chống cộng trong chiến tranh Việt Nam, vừa để nhằm mục đích "nâng cao vị thế quốc gia", hỗ trợ chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản cũng như đổi lấy những khoản viện trợ từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Đây là lực lượng quân sự nước ngoài có quy mô lớn thứ hai trong cuộc chiến chỉ sau quân đội Hoa Kỳ, số lượng binh sĩ Hàn Quốc tham chiến đạt mức cao nhất trong năm 1968 với trên 50.000 người.
Sau 9 năm chiến đấu ở Việt Nam (1964-1973); có khoảng từ 4.407 - 5.099 lính tử trận, 10.962 - 17.060 người khác bị thương và 4 mất tích trong suốt cuộc chiến. Quân đội Hàn Quốc gây ra một danh sách dài tội ác chiến tranh như thảm sát thường dân, xóa sổ nhiều làng mạc bị nghi ngờ hỗ trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khi tham chiến đồng thời bỏ lại hàng ngàn đứa con lai khi rời đi. Sau này, Hàn Quốc thống kê rằng quân đội của họ đã làm khoảng 41.000 người Việt Nam bị coi là Việt Cộng thiệt mạng. Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho binh lính Hàn Quốc. Tổng cộng Hoa Kỳ đã viện trợ hoặc cho Hàn Quốc vay ưu đãi khoảng 10 tỷ USD từ năm 1946-1978, trong đó nhiều nhất là giai đoạn 1965-1972. Trong 7 năm này, Hàn Quốc nhận được 5 tỷ USD, nhiều gấp 3 lần giai đoạn trước. Trong 2 năm đầu, thu nhập từ cuộc chiến chiếm khoảng 40% ngoại hối của Hàn Quốc. Một số học giả tính toán rằng khoản thu này chiếm từ 7-8% GDP Hàn Quốc giai đoạn 1966-1969. Số tiền được chính phủ Hoa Kỳ chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức bán công khai như trợ cấp phát triển quốc phòng, hợp đồng dân sự, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường bởi các đời tổng thống Johnson và Nixon. Cùng với quân đội sang Nam Việt Nam, các công ty công nghiệp lớn của Hàn Quốc; như Hyundai, đã tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm khi tham gia vào việc hoàn thành các dự án xây dựng, hậu cần, giao thông vận tải lớn tại đây, tạo tiền đề để giành được những hợp đồng giá trị hơn trên khắp thế giới sau này.
Hỗ trợ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ
Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc. Park Chung-hee quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1965 - động thái vấp phải sự phản đối gay gắt của nhiều người dân Hàn Quốc. Lao động giá rẻ trong nước khi ấy kết hợp với vốn và công nghệ của Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Nhật Bản trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai của Hàn Quốc chỉ sau Hoa Kỳ. Trong vòng 10 năm sau đó, thương mại giữa hai nước đã được mở rộng hơn 10 lần. Từ năm 1962 đến 1979, khoảng 60% công nghệ từ nước ngoài của Hàn Quốc là do Nhật Bản cung cấp.
Thị trường Hoa Kỳ cùng với các khoản đầu tư và chuyển giao công nghệ của Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc. Kinh tế Nhật Bản cũng là một mô hình rất tốt để Hàn Quốc noi theo trong công cuộc định hình, phát triển nền kinh tế quốc gia. Trong thời kỳ thuộc địa và kể cả sau khi giành được độc lập, người Hàn Quốc đã học hỏi được rất nhiều điều từ người Nhật về những gì mà một quốc gia không thuộc phương Tây có thể làm để công nghiệp hóa cũng như hiện đại hóa thành công. Một nhà kinh tế học Hàn Quốc từng mô tả chính sách của cộng đồng doanh nghiệp nước này vào thời điểm đó là: "Làm hệt như những gì người Nhật đã từng làm, nhưng cố gắng tìm cách làm sao để đạt được điều đó một cách nhanh, hiệu quả và ít tốn kém hơn".
Cải cách văn hóa - xã hội
Park Chung-hee cho rằng Hàn Quốc trước tiên cần phải phát triển kinh tế vững mạnh rồi sau đó mới có thể có được dân chủ. Ông sử dụng hệ thống cảnh sát mật để theo dõi và dẹp tan mọi hành vi chống lại mình. Tất cả mọi cá nhân có phát ngôn hoặc hành động chống lại chính phủ, mọi cuộc biểu tình đòi tăng lương đều bị đáp lại bằng sự trừng phạt, bắt bớ, trấn áp thẳng tay. Park Chung-hee sử dụng luật an ninh chống cộng để bỏ tù và tra tấn bất cứ ai bất đồng chính kiến. Các cuộc biểu tình, hệ thống báo chí và phát ngôn nói chung đều bị kiểm duyệt hà khắc. Các sĩ quan cảnh sát mang thước và chặn thanh niên trên phố để đo tóc và váy của họ. Chính quyền sẽ can thiệp rất thô bạo nếu thanh niên để tóc dài, phụ nữ mặc váy ngắn. Gián điệp, chỉ điểm có mặt khắp mọi nơi, giám sát đến cả trường học. Những người bất đồng chính kiến khó thoát khỏi bị bắt và kết cục là cuộc sống mòn mỏi ở trong tù. Ở Hàn Quốc thời điểm này, nếu một người bị quy là người cộng sản, người đó sẽ mất hết mọi quyền tồn tại trong xã hội. Quy kết và phê phán nhằm vào một chính sách nào đó của chính phủ, chính khách đối lập là mang tư tưởng "cộng sản chủ nghĩa" là phương cách được chính quyền Park ưa thích và tận dụng rất hiệu quả. Khi một nhà hoạt động xã hội bị bắt, người đó sẽ bị tra tấn dã man để phải thú nhận mình là người cộng sản. Cho đến nay, không một chính trị gia nào có thể tạo được sự uy quyền bao trùm tuyệt đối lên đất nước cũng như khiến cho cả một thế hệ người dân Hàn Quốc sợ hãi như Park Chung-hee.
thumb|230x230px|Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc trong thời kỳ Saemaul Undong Chế độ độc tài quân sự của Park Chung-hee mang tính chất chuyên chế độc đoán, phản dân chủ mạnh mẽ, nhưng cũng không thể phủ nhận những mặt tích cực của chế độ chính trị này đối với việc định hướng diện mạo nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc ngày nay. Bên cạnh các biện pháp chính trị, Park Chung-hee sử dụng các yếu tố văn hóa Nho giáo để thúc đẩy phát triển đất nước. Vào đầu những năm 1970, Park Chung-hee dự định dẹp bỏ tất cả những gì gọi là truyền thống để nhanh chóng đạt được hiện đại hóa. Phong trào xây dựng nông thôn mới (Saemaul Undong) đã đập phá nhiều di sản văn hóa, những truyền thống đều bị coi là "cổ hủ", "lạc hậu" và "lỗi thời" - cần phải nhanh chóng gạt bỏ để tiến lên hiện đại hóa.
Nhưng về tư tưởng, Park Chung-hee nhận thấy không thể đưa ra một học thuyết chính trị mới nào đủ hoàn thiện để có thể hoán đổi, thay thế được vị trí của Nho giáo trong xã hội Hàn Quốc mà nhận ra rằng, không thể không duy trì những yếu tố tích cực của nó. Trong đó, Trung (trung thành) và Hiếu (hiếu thảo) là hai giá trị tồn tại xuyên suốt qua nhiều thế hệ ở Hàn Quốc. Cũng trong thời gian này, xã hội Hàn Quốc xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học giả về tính hữu dụng của những yếu tố tích cực của Nho giáo truyền thống. Cuối cùng, Park Chung-hee đi đến quyết định: "Giá trị quan của Nho giáo về Trung và Hiếu là những nền tảng không thể tách rời của xã hội". Chính sách giáo dục đề cao đạo Khổng được ông ra chỉ thị tiếp tục giảng dạy trong nhà trường cũng như truyền bá sâu rộng trong đời sống nhân dân.
Thành quả
thumb|210x210px|Tăng trưởng GDP (PPP) của Hàn Quốc (1911-2008) Sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đã cải thiện đáng kể mức sống cho người dân Hàn Quốc. Cuối năm 1965, khoảng 58,7% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50,4% vào năm 1970 và 38,4% vào năm 1978. Công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng dân số ở các đô thị của Hàn Quốc, tăng từ 28,3% năm 1960 lên 54,9% vào năm 1979. Năm 1960, khoảng một phần ba trẻ em từ 12 đến 14 tuổi theo học tại các trường trung học; tỷ lệ đó tăng lên 53,3% vào năm 1970 và 74,0% vào năm 1975. Năm 1960, chỉ có khoảng 19,9% dân số từ 15 đến 17 tuổi được đi học; tỷ lệ đó tăng lên 29,3% vào năm 1970 và 40,5% vào năm 1975. Năm 1970, quá trình xây dựng tuyến đường cao tốc Gyeongbu được hoàn thành, liên kết thủ đô Seoul với các khu vực phía đông nam cũng như các thành phố cảng lớn ở phía nam đất nước. Vào năm 1969, cả nước chỉ có 200.000 máy truyền hình thì đến năm 1979 đã có khoảng 6 triệu máy. Nếu như cũng trong năm 1969, chỉ có 6% hộ gia đình ở Hàn Quốc sở hữu một chiếc TV thì đến năm 1979, tỷ lệ này đã là 4/5. Tuy nhiên, vào ngày 26 tháng 10 năm 1979, tổng thống Park Chung-hee bất ngờ bị ám sát, sự tăng trưởng đều đặn của đất nước cũng đột ngột dừng lại, kéo theo đó là một thời kỳ hỗn loạn liên tiếp về chính trị cộng với sự tăng vọt của giá dầu mỏ cùng vụ mùa thu hoạch lúa gạo thất bát và tỷ lệ lạm phát lên tới 44% năm 1979 đã khiến cho nền kinh tế Hàn Quốc phải chịu mức suy thoái chạm mức 6% trong năm 1980. Nhưng sau đó, nền kinh tế đã nhanh chóng được phục hồi và quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng. Thập niên 1980 tiếp tục chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào những năm 1986-1988 ở mức 12% mỗi năm khiến cho Hàn Quốc trở thành nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới tại thời điểm đó Thời kỳ cải cách thành công và bùng nổ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc được gọi là "Kỳ tích trên dòng sông Hán".
Sự hình thành Chaebol
thumb|215x215px|Các tài phiệt bị phản đối trong một cuộc biểu tình Trong bối cảnh chính trị như vậy, kinh tế Hàn Quốc cũng phát triển theo mô hình "độc tài". Các Chaebol hay Tài phiệt bắt đầu dần hình thành và chi phối nền kinh tế quốc gia. Thông thường, tài phiệt là các tập đoàn đa quốc gia với thành viên bao gồm rất nhiều doanh nghiệp quốc tế nhưng đều nằm dưới sự điều khiển của một ông chủ duy nhất nắm quyền điều hành trên tất cả những cơ sở này. Hiện nay, ở Hàn Quốc có đến hàng chục nhóm tài phiệt như vậy, hầu hết nằm dưới sự điều khiển tuyệt đối của một vài gia tộc. Năm 2008, khoảng 80% GDP của Hàn Quốc có nguồn gốc từ các tài phiệt, chỉ tính riêng Samsung đã chiếm tới 1/5 giá trị xuất khẩu của nước này. Các lãnh đạo tài phiệt cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc chi phối nền chính trị Hàn Quốc. Ví dụ, vào năm 1988; chủ tịch tập đoàn Hyundai khi ấy là ông Chung Mong-joon đã trúng cử vào quốc hội, một số lãnh đạo tài phiệt khác cũng trúng cử đại biểu quốc hội thông qua cơ chế đại diện tỷ lệ.
Các tài phiệt nắm giữ một tỷ lệ nhỏ cổ phần nhưng lại có rất nhiều quyền lực cùng khả năng kiểm soát các công ty con. Ví dụ: Samsung chỉ sở hữu khoảng 0,5% tài sản của các chi nhánh thuộc quyền, nhưng trên thực tế thì họ có quyền điều phối tất cả các công ty con. Điều này cho thấy rằng mức độ tuân thủ luật pháp ở giới tài phiệt Hàn Quốc là rất thấp. lũng đoạn thị trường và trở nên quá lớn để có thể bị khống chế hay sụp đổ. Một số công ty như Hyundai, SK thậm chí còn dính líu đến những vụ bê bối liên quan tới các tổng thống Kim Dae-jung, Roh Moo-hyun.
Từ năm 1998 đến 2007, Hàn Quốc đã có những tiến bộ trong quá trình dân chủ hoá, song đôi khi vẫn trượt theo hướng độc tài, nhiều tổ chức phi chính phủ giả hiệu hoạt động theo mệnh lệnh của chính quyền cùng nhiều tổ chức chính trị cánh hữu hiện "vẫn tìm cách bảo vệ những quyền ưu tiên mà họ có được từ thời kỳ độc tài". Ở Hàn Quốc, quá trình dân chủ hoá diễn ra trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng nhưng không thúc đẩy phát triển dân chủ mà vẫn mang nặng tính bóc lột khiến cho người dân hiện nay phải gánh chịu rất nhiều áp lực trong cuộc sống. Người Hàn Quốc làm việc trung bình khoảng 2.052 giờ/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình 1.707 giờ/năm của các nước trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).
Địa lý
Khái quát
thumb|207x207px|Hàn Quốc nhìn từ vệ tinh Lãnh thổ Hàn Quốc được sắp xếp thành 17 đơn vị hành chính, bao gồm cả các thực thể địa lý tranh chấp như nhóm đảo Liancourt / Dokdo (với Nhật Bản và Bắc Triều Tiên) và bãi đá ngầm Socotra, Gageo (với Trung Quốc) mà nước này tuyên bố chủ quyền đồng thời hiện đang duy trì quyền tài phán cũng như sự kiểm soát trên thực tế. Lãnh thổ Hàn Quốc trải dài từ vĩ độ 33° đến 38° Bắc và kinh độ từ 124° đến 130° Đông.
Địa hình
thumb|176x176px|Bản đồ địa hình Hàn Quốc Không giống như Nhật Bản hay các tỉnh phía bắc Trung Quốc, địa chất của bán đảo Triều Tiên tương đối ổn định. Không có núi lửa hoạt động (ngoại trừ núi Bạch Đầu ở biên giới giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, hoạt động gần đây nhất vào năm 1903) và cũng không có các trận động đất mạnh.
Hàn Quốc ít các vùng đồng bằng rộng, các vùng đất thấp là sản phẩm của hoạt động xói mòn núi. Khoảng 30% lãnh thổ Hàn Quốc là các vùng đất thấp, phần còn lại bao gồm vùng cao và những ngọn núi. Phần lớn các vùng đất thấp nằm dọc theo bờ biển, đặc biệt là bờ biển phía tây dọc theo những con sông lớn. Đồng bằng quan trọng nhất là đồng bằng sông Hán bao quanh thủ đô Seoul cho tới ven biển phía tây nam của thành phố Pyeongtaek cùng lưu vực các sông Geum, Nakdong, Yeongsan và Honam ở phía tây nam. Một dải đồng bằng hẹp ven biển chạy dọc theo bờ biển phía đông đất nước.
Khí hậu
thumb|221x221px|Các kiểu khí hậu của Hàn Quốc Hàn Quốc có sự xen kẽ giữa khí hậu lục địa ẩm ướt, ôn đới và cận nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Á, có bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân thường kéo dài từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5, mùa hè từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 9, mùa thu từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11 và mùa đông từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 3.
Mùa đông Hàn Quốc rất lạnh với nhiệt độ thường xuyên dưới 0 °C và có thể xuống dưới −20 °C (−4 °F) ở những vùng nội địa do gió mùa mang không khí lạnh từ Siberia thổi tới. Ở Seoul, nhiệt độ trung bình tháng 1 là −7 đến 1 °C (19 đến 34 °F) và phạm vi nhiệt độ trung bình tháng 8 là 22 đến 30 °C (72 đến 86 °F). Nhiệt độ mùa đông cao hơn dọc theo bờ biển phía nam và thấp hơn đáng kể ở các vùng núi. Mùa hè nóng và ẩm với nhiệt độ vượt quá 30 °C (86 °F) ở hầu hết các khu vực trên cả nước. Do ở phía nam và bị biển bao bọc chung quanh, đảo Jeju có thời tiết ấm hơn và dễ chịu hơn so với các vùng khác của Hàn Quốc. Nhiệt độ trung bình trên đảo vào khoảng từ 2,5 °C (36,5 °F) trong tháng Giêng đến 25 °C (77 °F) trong tháng Bảy.
Những cơn mưa nặng hạt tập trung vào một quãng thời gian ngắn trong mùa hè. Mùa mưa ở Hàn Quốc được gọi là "Jangma", bắt đầu từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7. Lượng mưa trung bình hàng năm thay đổi từ 1.370 mm (54 inch) ở Seoul đến 1.470 mm (58 inch) ở Busan. Hiếm khi nào mưa ít hơn 750 milimét (29,5 inch) trong năm, phần lớn đều trên 1.000 milimét (39,4 inch) nên nước này có đủ mưa để duy trì sản xuất nông nghiệp. Hàn Quốc ít bị bão hơn so với Nhật Bản và Trung Quốc. Có khoảng từ 1-3 cơn bão mỗi năm. Bão thường đổ bộ vào cuối mùa hè, đặc biệt là trong tháng Tám và tập trung chủ yếu vào vùng bờ biển phía nam; đem đến gió mạnh cùng những cơn mưa xối xả. Lũ lụt thỉnh thoảng cũng gây ra thiệt hại đáng kể như sạt lở đất dẫn tới đất đai, nhà cửa, cơ sở vật chất bị phá hủy do địa hình Hàn Quốc phần lớn là đồi núi.
Môi trường
thumb|184x184px|Các nhà máy công nghiệp gây phát thải lớn ở Hàn Quốc Có rất ít nỗ lực bảo vệ môi trường ở Hàn Quốc trong 20 năm đầu giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng. Công nghiệp hóa và phát triển đô thị không được kiểm soát đã dẫn đến nạn phá rừng và phá hủy các vùng đất ngập nước. Tuy nhiên, gần đây đã có những nỗ lực để ứng phó, khắc phục những vấn đề này, bao gồm cả một dự án năng lượng sạch 5 năm do chính phủ điều hành trị giá 84 tỷ USD nhằm mục đích thúc đẩy hiệu quả năng lượng và công nghệ xanh.
Chiến lược phát triển dựa trên nền tảng xanh là sự đại tu toàn diện của nền kinh tế Hàn Quốc. Chi phí cho chương trình tiêu tốn gần 2% tổng GDP. Các sáng kiến phủ xanh bao gồm những nỗ lực xây dựng mạng lưới xe đạp, tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như mặt trời và gió, giảm thiểu các phương tiện chạy bằng xăng dầu, tiết kiệm ánh sáng điện tử không cần thiết vào ban ngày bằng cách áp dụng rộng rãi các công nghệ thân thiện với môi trường như đèn LED trong chiếu sáng trên toàn quốc. Chương trình tiêu chuẩn danh mục tái tạo với các chứng chỉ năng lượng tái tạo đã có từ năm 2012 đến 2022. Các hệ thống hạn ngạch ủng hộ các máy phát lớn, tích hợp theo chiều dọc cùng các tiện ích điện đa quốc gia, nếu chỉ vì các chứng chỉ thường được quy định theo đơn vị 1 Megawatt/giờ, chúng cũng khó thiết kế và thực hiện hơn so với biểu giá Feed-in. Khoảng 350 đơn vị nhiệt điện kết hợp vi mô dân cư đã được lắp đặt vào năm 2012.
Năm 2017, Hàn Quốc là quốc gia phát thải khí carbon lớn thứ 7 trên thế giới cũng như đứng thứ 5 toàn cầu theo bình quân đầu người. Tổng thống Moon Jae-in cam kết giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính xuống còn 0 vào năm 2050.
Nước máy của Seoul gần đây cũng đã trở nên an toàn để uống. Các dự án trồng rừng được đẩy mạnh. Một dự án trị giá nhiều tỷ đô la khác là phục hồi suối Cheonggyecheon, một con suối chảy qua trung tâm Seoul mà trước đó đã bị lấp lại khi xây đường cao tốc. Vấn đề lớn nữa là chất lượng không khí với mưa axit, oxit lưu huỳnh và bão bụi vàng từ phía Trung Quốc thổi qua hàng năm, đây là thách thức đặc biệt nghiêm trọng với môi trường. Người ta thừa nhận rằng tình trạng này xày ra một phần là do ảnh hưởng từ các khu vực Nội Mông và Hoa Bắc lân cận của Trung Quốc - những nơi đang bị ô nhiễm không khí trầm trọng.
Hàn Quốc là thành viên của Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực, Công ước về Đa dạng sinh học, Nghị định thư Kyoto (hình thành Nhóm toàn vẹn môi trường (EIG), liên quan đến UNFCCC, với Mexico và Thụy Sĩ), CITES, UNCLOS, Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện, Nghị định thư Montréal và Công ước Ramsar.
Chính trị
thumb|218x218px|Hệ thống bầu cử và phân quyền của Hàn Quốc Thể chế chính trị của Hàn Quốc được chia thành ba nhánh tách biệt bao gồm hành pháp, lập pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất. Các cơ quan hành pháp và lập pháp hoạt động chủ yếu ở cấp quốc gia, mặc dù các bộ khác nhau trong ngành hành pháp cũng thực hiện chức năng cấp địa phương. Chính quyền địa phương là bán tự trị đồng thời có các cơ quan hành pháp cùng lập pháp của riêng họ. Ngành tư pháp hoạt động ở cả cấp quốc gia và địa phương.
Hiến pháp Hàn Quốc đã được chú trọng sửa đổi nhiều lần kể từ khi ban hành lần đầu tiên vào năm 1948 sau khi giành độc lập. Tuy nhiên, văn bản này vẫn giữ được nhiều đặc điểm rộng rãi và ngoại trừ Đệ Nhị Đại Hàn Dân Quốc tồn tại trong thời gian ngắn. Hàn Quốc luôn có một hệ thống tổng thống với một uỷ ban điều hành độc lập. Theo hiến pháp, nhà nước hiện hành đôi khi được gọi là Đệ Lục Đại Hàn Dân Quốc. Cuộc bầu cử trực tiếp lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1948. Ngày nay, The World Factbook và Cơ quan Tình báo Kinh tế công nhận và mô tả nền dân chủ của Hàn Quốc là một nền dân chủ lập hiến đầy đủ chức năng. Năm 2020, Hàn Quốc được xếp hạng 8 châu Á và thứ 33 trên thế giới về chỉ số nhận thức tham nhũng theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế.
Theo Điều luật 70 của Hiến pháp, người đứng đầu chính phủ là Tổng thống do mỗi công dân mang quốc tịch Hàn Quốc từ trên 18 tuổi trở lên trực tiếp bỏ phiếu bầu ra, thời hạn nhiệm kỳ kéo dài 5 năm và không được phép tái tranh cử. Tổng thống là người đại diện cao nhất cho quốc gia, chịu trách nhiệm điều hành đất nước đồng thời có toàn quyền chỉ huy quân đội - tương đương với Tổng Tư lệnh. Ngoài ra, Tổng lý Quốc vụ (Thủ tướng) do Tổng thống chỉ định. Chính phủ có tối thiểu 15 và tối đa 30 thành viên. Thành viên chính phủ cũng do Thủ tướng chỉ định nhưng vẫn phải được sự thông qua của Quốc hội. Quốc hội Hàn Quốc có 300 ghế với 253 ghế cử tri và 47 ghế đại biểu theo tỷ lệ, đại biểu quốc hội được bầu 4 năm một lần.
Cơ quan quan trọng thứ ba trong hệ thống chính trị của Hàn Quốc là Toà án Tối cao. Cơ quan này theo dõi hoạt động của chính phủ và ra các phán quyết cuối cùng. Toà án Tối cao gồm có 9 thẩm phán. Tổng thống trực tiếp chỉ định 3 người trong số này, 3 người khác được quốc hội bầu ra, tuy nhiên vẫn phải được sự chấp thuận của Tổng thống. Chánh án Toà án tối cao là người chỉ định 3 thẩm phán còn lại.
Quân sự
nhỏ|215x215px|Binh sĩ Hàn Quốc tại DMZ Quân đội Hàn Quốc được phân thành Lục quân, Hải quân (bao gồm Thủy quân lục chiến) và Không quân. Theo hiến pháp, toàn bộ nam giới từ 18 đến 28 tuổi đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc bất kể là ai. Thời gian tại ngũ là 18 tháng đối với lục quân cùng thủy quân lục chiến, 20 tháng với hải quân và 22 tháng với không quân.
Tiền thân của quân đội Hàn Quốc là Hàn Quốc Quang phục Quân, lực lượng dân quân được thành lập bởi chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc ở Trùng Khánh, Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 17 tháng 9 năm 1940 trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên. Ngoài ra, nhiều binh sĩ trực thuộc Quốc Dân Đảng và Mãn Châu Quốc có gốc là người Triều Tiên về sau cũng tham gia vào hàng ngũ kháng chiến. Sau khi Hàn Quốc độc lập khỏi Nhật Bản vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, lực lượng quân cảnh cùng lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hàn Quốc (do Phó Đô đốc Son Won-il cùng nhiều người khác tổ chức) được thành lập thông qua chính quyền quân sự Hoa Kỳ tại phía nam bán đảo. Các lực lượng này về sau lần lượt phát triển thành Lục quân và Hải quân Hàn Quốc, sau này có thêm lực lượng Không quân - thành lập vào tháng 10 năm 1949. Quân đội Hàn Quốc phát triển nhanh chóng trong giai đoạn sau của chiến tranh Triều Tiên do được Hoa Kỳ cùng Bộ Tư lệnh Liên Hợp Quốc trang bị và huấn luyện. Sau chiến tranh, quân đội Hàn Quốc thiết lập liên minh quân sự với Hoa Kỳ cũng như ký kết Hiệp ước Phòng thủ chung.
Theo Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ – Hàn (1953), quân đội Mỹ duy trì sự hiện diện, đặt căn cứ quân sự đồng thời đưa toàn bộ lãnh thổ Hàn Quốc vào Ô bảo vệ Hạt Nhân cùng với NATO, Nhật Bản, Úc, tiến hành các hoạt động tập trận chung, hỗ trợ đào tạo nhân lực và bảo đảm an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó, các đơn vị vũ trang trực thuộc Hải quân Hoa Kỳ đóng gần Hàn Quốc như Hạm đội 7 cũng sẵn sàng tham chiến cùng lực lượng mặt đất trong trường hợp nước này bị tấn công xâm lược. Mỗi năm, khoảng 2.000 quân nhân Hàn Quốc được chọn ra để phục vụ 21 tháng trong chương trình KATUSA – biểu tượng của quan hệ đồng minh Mỹ - Hàn trên lĩnh vực quân sự, nhằm mục đích nâng cao quan hệ quốc phòng song phương cũng như tăng cường sức mạnh cho lực lượng liên quân Hoa Kỳ – Hàn Quốc.
Ngoại giao
215x215px|thumb|Quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc
Hàn Quốc duy trì quan hệ ngoại giao với 191 nước. Quốc gia này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn, trong đó nổi bật như Liên Hợp Quốc, WTO, OECD, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới, FAO, UNIDO, IAEA, ITU, UNESCAP, ICAO, IEA, Interpol, Câu lạc bộ Paris, Liên minh MIKTA, DAC, IPEF, nhóm các nền kinh tế lớn G20, khối đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ,... Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn là thành viên sáng lập của APEC, Hội nghị cấp cao Đông Á, Cộng đồng Đông Á và Ngân hàng Phát triển châu Á.
Hàn Quốc có kế hoạch tham vọng tiến tới công cuộc tái thống nhất hòa bình với Bắc Triều Tiên trong năm 2045. Tuy nhiên, Hàn Quốc vẫn không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ Bắc Triều Tiên, những ai bày tỏ thái độ ủng hộ, có các hành động tuyên truyền, phát biểu, diễn thuyết ca ngợi Bắc Triều Tiên sẽ bị trục xuất khỏi nước này nếu là người nước ngoài Hàn Quốc là quốc gia viện trợ nhân đạo nhiều nhất cho Bắc Triều Tiên trong năm 2019.
Với Nhật Bản, mặc dù là hai quốc gia láng giềng và đều là đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Bắc Á nhưng nhiều người dân Hàn Quốc có cái nhìn tiêu cực đối với Nhật Bản, nguyên nhân chủ yếu do nước này đã phải chịu sự cai trị của Nhật Bản. Dù Nhật Bản trao trả độc lập năm 1945 nhưng phải chờ đến tận năm 1965 thì hai nước mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong những năm gần đây, quan hệ hai nước trở nên căng thẳng do những tuyên bố chủ quyền đối với đảo Liancourt - nhóm đảo mà Hàn Quốc kiểm soát từ tháng 7 năm 1954. Cả hai quốc gia đều coi đây là một phần lãnh thổ không thể tách rời, dẫn tới nhiều mâu thuẫn ngoại giao.
Với Trung Quốc, Hàn Quốc và Trung Quốc có mối quan hệ sâu rộng, phức tạp và lâu đời. Trung Hoa Dân Quốc là nơi chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc thành lập và hoạt động kháng chiến chống Nhật trong một thời gian dài. Bước sang thời kỳ hiện đại, quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hàn Quốc nhìn chung là rất thù địch vào khoảng thời gian trước những năm 1980, khi ấy Trung Quốc đại lục chỉ công nhận chính quyền Bắc Triều Tiên trong khi Hàn Quốc cũng chỉ công nhận chính quyền Trung Hoa Dân Quốc trên đảo Đài Loan. Hàn Quốc trở thành quốc gia châu Á cuối cùng thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 24 tháng 8 năm 1992. Một cuộc khảo sát được công bố vào năm 2019 bởi Trung tâm nghiên cứu Pew và Hội đồng các vấn đề toàn cầu Chicago cho thấy rằng có tới 63% người dân Hàn Quốc giữ quan điểm tiêu cực về Trung Quốc.
Tương tự Trung Quốc, quan hệ giữa Hàn Quốc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 là thù địch, khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đồng minh thân cận với Bắc Triều Tiên còn Hàn Quốc là Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, khác biệt trong quan điểm chính trị kết hợp cùng chính sách cấm vận Việt Nam từ phía Hoa Kỳ, quan hệ ngoại giao giữa nhà nước Việt Nam thống nhất và Hàn Quốc tiếp tục bế tắc. Năm 1990, sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, quan hệ ngoại giao giữa hai nước dần cải thiện. Ngày 5 tháng 12 năm 2022, chính phủ hai nước chính thức nâng cấp quan hệ song phương lên thành "Đối tác chiến lược toàn diện".
Liên minh châu Âu (EU) và Hàn Quốc là những đối tác thương mại quan trọng. Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 của EU và EU là điểm đến xuất khẩu lớn thứ 3 của Hàn Quốc. Hàn Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có với EU đồng thời 3 hiệp định về kinh tế, chính trị và an ninh. Bên cạnh EU, Hàn Quốc còn là khách mời thường trực trong các hội nghị thượng đỉnh chính thức cũng như bên lề của G7, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump từng ủng hộ việc đưa Hàn Quốc trở thành một thành viên của nhóm. Tuy nhiên, quan điểm này vấp phải sự phản đối của Nhật Bản do chính sách thân Trung Quốc của chính quyền Tổng thống Moon Jae-in. Hàn Quốc là đối tác toàn cầu của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Hàn Quốc và Nga cùng tham gia Đàm phán Sáu bên về vấn đề tên lửa - hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Ngoài ra, Hàn Quốc là một trong những khách hàng mua khí đốt lớn của Nga đồng thời giữa hai nước có nhiều hợp tác thương mại song phương trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là quốc phòng. Vào tháng 6 năm 2018, Moon Jae-in trở thành nhà lãnh đạo Hàn Quốc đầu tiên phát biểu trước Quốc hội Nga và tới ngày 22 tháng 6 cùng năm, ông cùng với người đồng cấp Nga Vladimir Putin chính thức ký kết văn kiện thành lập một khu vực thương mại tự do.
Hàn Quốc là một trong những đồng minh không thuộc NATO quan trọng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dưới thời tổng thống Donald Trump, mối quan hệ này bị rạn nứt do chính phủ hai nước xảy ra nhiều bất đồng xung quanh việc chi trả chi phí hoạt động cho các lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại Hàn Quốc. Sau thời kỳ cầm quyền của ông Trump, tổng thống kế nhiệm Joe Biden và chính quyền Seoul đã xử lý thành công vấn đề trên với việc Hàn Quốc đồng ý đóng góp 1,03 tỷ USD cho các lực lượng Mỹ đồn trú tại nước này. Bên cạnh đó, tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng yêu cầu phía Mỹ tiến hành chuyển giao toàn bộ quyền chỉ huy quân đội thời chiến cho các tướng bản địa.
Phân cấp hành chính
Hàn Quốc bao gồm 1 thủ đô (đặc biệt thị - thành phố đặc biệt), 6 tỉnh (đạo), 6 thành phố đô thị (quảng vực thị), 3 tỉnh tự trị đặc biệt (đặc biệt tự trị đạo) và 1 thành phố tự trị đặc biệt (đặc biệt tự trị thị). Thủ đô Seoul là thành phố lớn nhất. Ngoài ra, vùng thủ đô Seoul - trung tâm đô thị lớn thứ 4 thế giới theo dân số, cũng là một trong những đại đô thị có quy mô kinh tế lớn nhất với hạng 17 thế giới về GRDP (2020).
Kinh tế
nhỏ|208x208px|Xuất khẩu của Hàn Quốc (2019) Kinh tế Hàn Quốc bao gồm những đặc điểm nổi bật như hỗn hợp, cạnh tranh, mức độ tự do cao và ít có sự can thiệp của chính phủ. Hàn Quốc được xếp vào nhóm các quốc gia phát triển. Hàn Quốc là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới từ đầu thập niên 1960 cho đến cuối những năm 1990 và vẫn tiếp tục tăng trưởng đều đặn trong thập niên 2000. Từ năm 1980 đến 1990, quốc gia này ghi nhận mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhanh nhất thế giới.
Kinh tế Hàn Quốc chịu ảnh hưởng lớn từ những tập đoàn tài phiệt (Chaebol). Từ thập niên 1970, các Chaebol bắt đầu xâm nhập và tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường thế giới, biến quốc gia này trở thành một thực thể thương mại quốc tế quan trọng. Tuy nhiên; trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, nhiều chi nhánh của các tập đoàn này ở nước ngoài đã phải đóng cửa khiến cho Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tài