✨Tư Mã Việt

Tư Mã Việt

Tư Mã Việt (chữ Hán: 司馬越, ?-311), tức Đông Hải Hiếu Hiến vương (東海孝獻王), tự là Nguyên Siêu (元超), là tông thất của nhà Tấn, một trong tám vị chư hầu vương trong loạn bát vương đầu thời Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Ông nội của Tư Mã Việt là Tư Mã Quỳ, em trai của Tấn Tuyên đế Tư Mã Ý. Họ Tư Mã từ năm 251 đã nắm được quyền chính của nhà Ngụy, trải qua ba đời là Tuyên đế Tư Mã Ý, Cảnh đế Tư Mã Sư và Văn đế Tư Mã Chiêu. Đến năm 265, con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm cướp ngôi nhà Ngụy, lập ra nhà Tấn. Về thế thứ trong dòng họ, Tư Mã Việt thuộc dòng thứ, gọi Tấn Vũ đế Tư Mã Viêm là anh và thuộc hàng chú của Tấn Huệ đế Tư Mã Trung.

Được phong Đông Hải vương

Buổi đầu, Tư Mã Việt được phong làm Kị đô úy, cùng phò mã đô úy Dương Mạc và Lang Tà quận vương Tư Mã Luân làm thị giảng cho thái tử Tư Mã Trung (con trai Tấn Vũ đế). Năm 291, thời Huệ đế (tức Tư Mã Trung, Tư Mã Việt tham gia vào cuộc lật đổ ngoại thích Dương Tuấn (ông ngoại Tấn Huệ đế), lập được công nên được phong làm Ngũ Thiên Hộ hầu, Phụ quốc tướng quân, Thượng thư Hữu phó xạ. Sau đó, ông được phong làm Đông Hải vương. Đến năm Vĩnh Khang, ông được thăng làm Trung thư lệnh, cai quản Trung thư giám.

Diệt Tư Mã Nghệ

Năm 301, Tư Mã Luân cướp ngôi Tấn Huệ đế, mở ra loạn bát vương trong lịch sử Trung Quốc. Đến tháng 4 năm đó, Tề vương Tư Mã Quýnh giết chết Tư Mã Luân, lập lại Huệ đế và nắm quyền chính. Tuy nhiên sang tháng 12 năm 302, Trường Sa vương Tư Mã Nghệ giết Tư Mã Quýnh và nắm được quyền hành. Tấn Huệ đế phong cho Dương thị làm Hoàng hậu và cháu nội là Tư Mã Tân làm thái tôn.

Năm Thái An thứ hai (303), Hà Gian vương Tư Mã Ngung và Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh hợp binh đánh Tư Mã Nghệ. Hai bên giao chiến ác liệt, giằng co nhiều trận. Tư Mã Nghệ đem quân cố thủ Lạc Dương, lại sai Dương Trầm đánh Tư Mã Ngung. Cùng lúc đó, do đố kị với Tư Mã Nghệ, Tư Mã Việt bèn nói loan lên rằng Tư Mã Ngung và Tư Mã Vĩnh đánh thành không phải vì muốn hại Tấn Huệ Đế mà vì muốn giết Nghệ, rồi truy lùng Nghệ. Nghệ trốn sang thành Kim Dung. Được Hoàng môn lang Phan Thao khuyến khích, Tư Mã Việt bèn báo cho Vương Phường là tướng của Tư Mã Ngung đem quân đánh Tư Mã Nghệ, giết chết Nghệ.

Sau khi Tư Mã Nghệ bị giết chết, Tư Mã Dĩnh vào thành, tự xưng là Thừa tướng, Hoàng Thái đệ và phong Tư Mã Việt làm Thượng thư lệnh.

Phân tranh cùng Dĩnh, Ngung

Từ khi lên làm Hoàng Thái đệ, Tư Mã Dĩnh sinh kiêu căng, bị dân chúng bất mãn. Năm Vĩnh An thứ nhất (304), Tư Mã Việt tức giận cùng tướng Trần Mạch mang quân đánh Dĩnh. Dĩnh thua chạy về Nghiệp Thành. Việt phục ngôi cho Dương Hậu và Thái tử. Sau đó, Tư Mã Việt ép Tấn Huệ đế phong mình làm đại đô đốc, đưa Huệ đế Việt thân chinh cùng đánh Nghiệp Thành để tận diệt Tư Mã Dĩnh. Tuy nhiên do chủ quan, tưởng quân Dĩnh tan rã, nên bị Dĩnh đánh úp, thua chạy tơi tả, còn Tấn Huệ đế bị Thạch Siêu bắt đem về Nghiệp Thành.

Tư Mã Việt thua trận trốn sang Hạ Bi, nhờ Từ châu đô đốc, Đông Bình vương Tư Mã Mậu nhưng Mậu không chịu tiếp nên ông phải chạy về đất phong của mình là quận Đông Hải. Cùng năm đó, thái tể Tư Mã Ngung ép Tấn Huệ đế phong Tư Mã Việt làm thái phó, cùng mình phụ chính nhưng ông không nhận.

Trong khi đó, phe Tư Mã Dĩnh thấy Dĩnh bị truất ngôi Hoàng thái đệ, bộ tướng Công Sư Phiên cũng khởi binh làm loạn. Tư Mã Việt sai Tuân Hi đi đánh không dẹp được. Cùng lúc đó, ông lôi kéo được Lưu Dư, lại muốn tận dụng binh lực của Thứ sử Dự Châu Lưu Kiều nhưng Kiều không nghe lệnh, chống lại Việt và theo phe Ngung.

Nghe tin Trương Phường ép Tấn Huệ đế dời đô Trường An, Trung úy Đông Hải là Lưu Hiệp khuyên Tư Mã Việt phát binh. Tư Mã Việt bèn phong Lưu Hiệp làm Tả Tư mã, Tào Phức làm Quân ty chuẩn bị khởi binh. Ông tự xưng là Đô đốc Từ châu, dời Tư Mã Mậu làm Thứ sử Duyễn châu. Sau đó, ông mời Đô đốc U Châu Vương Tuấn và Thứ sử Kinh Châu Tư Mã Đằng mang quân đánh Tư Mã Dĩnh. Hà Gian vương Tư Mã Ngung ép Huệ đế hạ chiếu giáng chức Tư Mã Việt, triệu về đất phong. Tư Mã Việt đành phải nghe lệnh, đem 3 vạn tướng sĩ về Tiểu Huyền. Thứ sử Dự Châu là Lưu Kiều sai con là Lưu Hưu đem quân đánh Tư Mã Việt. Tư Mã Việt thất bại. Tuy nhiên sau đó PHạm Dương vương Tư Mã Hao cùng đô đốc Điền Huy nghênh tiếp ông. Được sự giúp đỡ của Tư Mã Hao, Tư Mã Việt đem quân tấn công Tư Mã Ngung (lúc này đã nắm được quyền chính). Tư Mã Ngung bèn giết chết Vương Phương để tạ tội với Tư Mã Việt, nhưng bị ông cự tuyệt, ép phải trả lại Tấn Huệ đế

Năm 306, Tư Mã Việt sai tướng quân ở Sơn Đông là Kì Hoằng đem quân vào Trường An, đưa Tấn Huệ đế về Lạc Dương.

Quyền thần nhà Tấn

Sau khi nắm được Huệ đế, Tư Mã Việt nhanh chóng diệt được phe Ngung-Dĩnh, một mình nắm quyền. Loạn bát vương kết thúc với chiến thắng thuộc về Tư Mã Việt. Ông được Tấn Huệ đế phong làm Thái phó, lục thượng thư sự, lại phong thêm cho hai quân Tế Dương, Hạ Bi. Tháng 11 năm 306, Tư Mã Việt đầu độc chết Tấn Huệ đế, lập Hoàng Thái đệ Tư Mã Xí, con thứ 25 của Tấn Vũ đế làm vua, tức Tấn Hoài đế. Quyền chính trong triều hoàn toàn rơi vào tay Tư Mã Việt.

Năm 307, Lại Bộ lang Châu mục, cậu Thanh Hà vương Tư Mã Đàm, là người cùng phe với Tư Mã Việt và em gái là Gia Cát Mai đề nghị Tư Mã Việt phế Tấn Hoài đế, lập Thanh Hà vương làm thiên tử. Tư Mã Việt không nghe, giết hết hai người, nhưng tha cho ba họ. Nhân đó ông dâng sớ xin bỏ hình phạt tru di ba họ.

Năm 308, Hán vương Lưu Uyên tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Hán, mở ra thời Ngũ Hồ Thập lục quốc. Tấn Hoài đế cho Tư Mã Việt thống lĩnh quân chống Hung Nô.

Cùng năm 308, Lưu Uyên đem quân đánh Hứa Xương. Tư Mã Việt cử Tả Tư mã Vương Bân đem 5000 quân bảo vệ kinh thành Lạc Dương.

Bộ tướng của Tư Mã Dĩnh là Công Sư Phiên lại khởi binh báo thù cho chủ. Phiên chết, bộ tướng Ngập Tân và Thạch Lặc vẫn không chịu bãi binh, mang quân đánh chiếm Nghiệp Thành, giết Tân Thái Vương Tư Mã Đằng. Tư Mã Việt sai Tuân Hi mang quân đánh chiếm lại được Nghiệp Thành. Thạch Lặc thua chạy về hàng Lưu Uyên.

Năm 310, con Lưu Uyên là Lưu Thông sai 10 vạn quân đánh Lạc Dương. Tư Mã Viên đem 38 vạn quân ra chống, buộc Hung Nô lui quân.

Tư Mã Việt cầm quyền trong triều, giết nhiều người thân tín của Hoài đế. Hai bên xảy ra xung đột. Tháng 10 năm 310, các tướng Hán Triệu là Lưu Diệu, Lưu Xán (con Lưu Thông), Vương Di, Thạch Lặc chia đường cùng nhau tấn công Lạc Dương lần thứ ba. Tấn Hoài đế sai người đến các quận cầu cứu nhưng không có kết quả.

Tháng 10 năm 310, Tư Mã Việt đưa quân về Hứa Xương, để Hoài đế ở Lạc Dương.

Qua đời

Tư Mã Việt nắm giữ quyền chính, tỏ ra chuyên quyền hống hách, lấn át Tấn Hoài đế. Sau khi đem quân đuổi Hung Nô, Tấn Hoài đế không cho quân đuổi theo nữa mà rút về Trường An. Tư Mã Việt không đồng ý, liền thúc quân đuổi theo quân Hung Nô. Hai bên xảy ra mâu thuẫn với nhau.

Năm 311, Tấn Hoài đế phong Chinh đông tướng quân Tuân Hi làm Đại tướng quân, ban chiếu kể tội trạng của Tư Mã Việt, lệnh cho các trấn đem quân thảo phạt. Tuân Hi bắt giết phe cánh của Việt. Cùng lúc đó Tư Mã Việt bị bệnh qua đời ở Hạng Thành. Trong quân không vội phát tang, Tương Dương vương Tư Mã Phạm và Tư đồ Vương Diễn dẫn quân đưa thi thể ông vào Đông Hải an táng, bị tướng của Lưu Thông là Thạch Lặc đuổi theo, truy bắt, giết chết mấy vạn quân.

Thạch Lặc bắt được Vương Diễn và quan tài Tư Mã Việt, bèn giết Diễn và băm xác Tư Mã Việt.

Không rõ Tư Mã Việt thọ được bao nhiêu tuổi. Tấn Hoài đế xuống chiếu biếm Tư Mã Việt làm Huyền vương.

Tướng của Tư Mã Việt là Hà Luân, Lý Uẩn nghe tin ông qua đời, bèn dẫn thế tử Tư Mã Bì cùng gia quyến của ông bỏ trốn, đến đất Thương thì bị Thạch Lặc bắt được. Toàn bộ gia quyến của ông đều bị hại. Lý Uẩn trốn sang Quảng Tông còn Hà Luân trốn đến Hạ Bì. Vợ của ông là Bùi phi bị bắt.

Không bao lâu sau, Lưu Thông đem quân tiến chiếm Lạc Dương, tiêu diệt nhà Tây Tấn. Sau này, Tấn Nguyên Đế lập ra nhà Đông Tấn, truy tôn ông là Đông Hải Hiếu Hiến vương, và lập con là Tư Mã Xung làm Đông Hải vương, kế tục ông.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tư Mã Việt** (chữ Hán: 司馬越, ?-311), tức **Đông Hải Hiếu Hiến vương** (東海孝獻王), tự là **Nguyên Siêu** (元超), là tông thất của nhà Tấn, một trong tám vị chư hầu vương trong loạn bát
**Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc** (**VKFTA**; tiếng Anh: Viet Nam – Korea Free Trade Agreement; tiếng Hàn: 한-베트남 자유무역협정) là điều ước quốc tế được ký kết giữa Cộng
**Mạng từ tiếng Việt** là cơ sở ngữ liệu tiếng Việt do một nhóm các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Ngôn ngữ học nghiên cứu xây dựng
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
**Tư Mã Ngung** (chữ hán: 司馬顒) (?-306), tên tự là _Văn Tại (文 載)_, là tông thất nhà Tấn và có khoảng thời gian ngắn làm nhiếp chính cho Tấn Huệ Đế. Ông là người
**Tư Mã Dĩnh** (chữ Hán:司马颖; 279 - 306), tên tự là **Chương Độ** (章度), là một vị tông thất nhà Tấn, một trong các chư hầu vương nhà Tây Tấn tham gia loạn bát vương
**Từ thuần Việt** là những từ do người Việt sáng tạo, và như thế, là những từ có nguồn gốc nội sinh. ## Nguồn gốc Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp
nhỏ|phải|Lãnh thổ thời tự chủ Việt Nam. **Tự chủ** là thời kỳ đầu khôi phục lại nền độc lập của Việt Nam đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thời kỳ này,
**Tư Mã Ý** (chữ Hán: 司馬懿; 179 – 7 tháng 9 năm 251), biểu tự **Trọng Đạt** (仲達), là nhà chính trị, nhà quân sự phục vụ nước Tào Ngụy thời kỳ Tam Quốc trong
Tác giả Lê Hồng Lam, từ nhỏ đã yêu văn chương, viết lách. Khi trưởng thành anh chọn chọn theo ngành dầu khí, nhưng vẫn không thôi yêu nghiệp viết. Anh tham gia viết báo
**Tư Mã Hân** (?-203 TCN) là tướng nhà Tần và vua chư hầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. ## Giúp Hạng Lương Theo Sử ký, Tư Mã Hân làm chức quan coi
**Tư Mã Huy** (chữ Hán: 司馬徽; 173-208), tự **Đức Tháo** (德操), hiệu **Thủy Kính** (水鏡), người đời hay gọi là "Thủy Kính tiên sinh", là một danh sĩ cuối thời Đông Hán (Hán mạt và
nhỏ|phải|Trang bìa Từ điển Việt–Bồ–La _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_ ấn bản 1651. Lưu ý chữ Annamiticum viết sai vì có 3 chữ "n" **_Từ điển Việt–Bồ–La_** (tiếng Latinh: _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_) là
**Các thánh tử đạo Việt Nam** là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong
**Từ Hán Việt gốc Nhật** là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có nguồn gốc từ những từ ngoại lai gốc tiếng Nhật, phiên âm Hán Việt dựa theo Kanji. Từ Hán Việt gốc
**Tư Mã Tương Như** (chữ Hán: 司馬相如; 179 TCN - 117 TCN), biểu tự **Trường Khanh** (長卿), là một thi nhân văn sĩ rất đa tài, văn hay, đàn giỏi đời Tây Hán. Ông nổi
**Tư Mã Nguyên Hiển** (chữ Hán: 司馬元顯, 382 - 402), tức **Cối Kê Trung thế tử**, tên tự là **Lãng Quân** (朗君), là tông thất và đại thần chấp chính dưới thời Đông Tấn trong
**Tư Mã Thiên** ( hoặc ), biểu tự **Tử Trường** (), là một nhà sử học Trung Quốc sống vào đầu thời nhà Hán (206 TCN220). Ông được coi là cha đẻ của ngành sử
**Bánh mì** là một loại baguette của Việt Nam với lớp vỏ ngoài giòn tan, ruột mềm, còn bên trong là phần nhân. Tùy theo văn hóa vùng miền hoặc sở thích cá nhân mà
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Học viện Kỹ thuật Mật mã (KMA)** (tiếng Anh là: _Vietnam Academy of Cryptography Techniques_) là một trường đại học công lập trực thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ của Bộ Quốc phòng, được thành
**Tư Mã Quang** (Phồn thể: 司馬光; Giản thể: 司马光; bính âm: _Sima Guang_; Wade-Giles: _Szuma Kuang_; 1019–1086), tự **Quân Thật** 君實, hiệu **Vu Tẩu** 迂叟, là một nhà sử học, học giả Trung Quốc, thừa
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2024, truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin về việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định cho phép Võ Văn Thưởng, người giữ chức Ủy viên
Mã hàng 9786043353044 Tên Nhà Cung Cấp NXB Tổng Hợp TP.HCM Tác giả Lê Minh Quốc NXB NXB Tổng Hợp TP.HCM Năm XB 2021 Trọng lượng gr 350 Kích Thước Bao Bì 14,5 x 20,5
Sử ký của Tư mã Thiên Sử ký của Tư Mã Thiên là cả một thế giới. Tác phẩm vĩ đại này ghi lại lịch sử Trung Hoa trên dưới hai ngàn năm, từ thời
Viên uống chiết xuất quả việt quất DHC 20 ngày chứa các sắc tố tự nhiên, đặc biệt Quả việt quất giàu chiết xuất Anthocyanin kết hợp với hoa cúc và các Vitamin giúp cơ
**Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam** (EVFTA) là một thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam và 27 nước thành viên EU. EVFTA, cùng với Hiệp định Đối
**Dương Tử Giang** (1918 - 2 tháng 12 năm 1956) là nhà báo, nhà văn cách mạng Việt Nam. ## Tiểu sử Ông tên thật **Nguyễn Tấn Sĩ**, sinh năm 1918, quê tại Nhơn Thạnh,
Tượng đài tại nhà tù Phú Lợi nhỏ|Tượng sáp tái dựng lại hoàn cảnh sống của tù nhân **Nhà tù Phú Lợi** nay là một di tích lịch sử cách mạng của tỉnh Bình Dương.
Phù Phong Vũ vương **Tư Mã Tuấn** (chữ Hán: 司马骏, 232 – 286), tự **Tử Tang**, người huyện Ôn, quận Hà Nội tướng lãnh, hoàng thân nhà Tây Tấn. ## Xuất thân Tuấn là một
**Tư Mã Nghệ** (; 277 - 19 tháng 3 năm 304), tự _Sĩ Độ_ (士度) hoặc _Sĩ Khánh_ (仕庆), là một hoàng tử nhà Tấn, và từng giữ chức nhiếp chính trong thời gian ngắn
**Tư Mã Chiêu** (chữ Hán: 司馬昭; 211 – 6 tháng 9, 265), biểu tự **Tử Thượng** (子上), là một chính trị gia, quân sự gia, một quyền thần trứ danh thời kì cuối của nhà
**Tư Mã Duật** (chữ Hán: 司马遹; 278-300) biểu tự **Hi Tổ** (熙祖), tiểu tự **Sa Môn** (沙门) là tông thất nhà Tấn, hoàng thái tử của Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn
**Tư Mã Lượng** (司馬亮) (mất 291) tên tự _Tử Dực_ (子翼), tước hiệu _Nhữ Nam Văn Thành vương_(汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ
thumb|Bản sao Bộ tứ mã của thánh Marco thumb|Bản gốc Bộ tứ mã trong bảo tàng viện **Bộ tứ mã của thánh Marco** (), (còn được gọi là **Triumphal Quadriga**) là một bộ tượng bằng
**Tư Mã Đàm** (, ? – 110 TCN), là nhà sử học đầu thời Tây Hán. Ông quê quán ở huyện Bì Thị, hồi trẻ từng học thiên văn với phương sĩ Đường Đô, học
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Mại dâm ở Việt Nam** là một chủ đề về hoạt động mại dâm tại Việt Nam, cũng như những quy định của pháp luật về hành vi mua bán dâm, chủ chứa, môi giới
**Tụ Long** (chữ Hán: _聚龍_ hay _聚竜_) là địa danh cũ của Việt Nam, gắn liền với **mỏ đồng Tụ Long** (_聚龍銅廠_) nằm trên vùng biên giới Việt Nam-Trung Quốc, là vùng đất từng thuộc
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề