✨Tư Mã Dĩnh

Tư Mã Dĩnh

Tư Mã Dĩnh (chữ Hán:司马颖; 279 - 306), tên tự là Chương Độ (章度), là một vị tông thất nhà Tấn, một trong các chư hầu vương nhà Tây Tấn tham gia loạn bát vương dẫn đến sự suy yếu và sụp đổ của triều đại này. Năm 304, ông thao túng triều đình của anh mình, ép vua phong mình làm Hoàng thái đệ kế vị hoàng đế nhưng không lâu sau (cũng trong năm 304) ông bị Tư Mã Việt lật đổ và qua đời vào năm 306.

Thân thế và thời trẻ

Tư Mã Dĩnh là con trai thứ 16 của Tấn Vũ đế, vua đầu tiên của nhà Tấn, em Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn. Những năm cuối Thái Khang (niên hiệu của Tấn Vũ đế), ông được phong làm Thành Đô vương, thực ấp 10 vạn hộ. Sau đó, ông được phong làm Hoạt Kị giáo úy, Tán kị thường thị, chức Xa kị tướng quân.

Có lần cha của Giả hoàng hậu (Hoàng hậu thứ nhất của Tấn Huệ đế) là Giả Mật tranh chấp với thái tử Tư Mã Duật. Tư Mã Dĩnh biết chuyện đó, trách Giả Mật vô lễ với thái tử. Giả Mật sợ, do đó phái ông đi làm Bình Bắc tướng quân, trấn giữ Nghiệp thành, sau lại thăng ông làm Trấn bắc đại tướng quân 

Tham gia Loạn bát vương

Lật đổ Tư Mã Luân

Năm 299, hoàng hậu Giả Nam Phong vu cáo Thái tử Tư Mã Duật và phế thái tử Duật sau đó giết đi (năm 300). Các đại thần Sĩ Ỷ và Tư Mã Nhã muốn phục ngôi Thái tử, bèn nhờ cậy Triệu Vương Tư Mã Luân. Luân có mưu đồ riêng, phao tin rằng triều thần muốn phục ngôi Thái tử để phế Giả Hậu.

Giả Hậu sợ hãi, bèn giết Tư Mã Duật. Lúc đó Tư Mã Luân mới lấy cớ trị tội Giả Hậu để khởi binh, bắt giam Giả hậu, sau bức tử ở thành Kim Dung.

Năm 301, Tư Mã Luân theo kế Tôn Tú, phế truất Tấn Huệ Đế giành ngôi, an trí Huệ Đế ra thành Kim Dung.

Tề Vương Tư Mã Quýnh vốn có công cùng Luân phế Giả Hậu chỉ được ban chức nhỏ, có ý oán hận, nhân dịp Luân cướp ngôi, bèn sai người cầm hịch triệu tập một loạt vương thất tham chiến để trừ bỏ Luân. Tháng 5 năm 301, Tư Mã Dĩnh đem hai vạn quân cùng Hà Gian vương Tư Mã Ngung, Thường Sơn vương Tư Mã Nghệ, Tân Dã công Tư Mã Hâm cùng đánh Tư Mã Luân. Tư Mã Dĩnh đưa quân vượt qua sông Hoàng Hà, rồi tiến về kinh đô Lạc Dương, cùng các thân vương giết Tôn Tú và bức chết Tư Mã Luân, rước Huệ đế về lập lại làm vua. Tư Mã Dĩnh không lĩnh công, đưa quân về Nghiệp thành

Diệt trừ Tư Mã Nghệ

Sau khi Tư Mã Dĩnh về Nghiệp thành, Tấn Huệ đế sai Vương Túy đến gia phong cửu tích cho ông, phong làm Đại tướng quân, Đô đốc trung ngoại chư quân sự, Lục Thượng thư sự, cho phép vào triều không phải lạy và được mang kiếm. Ông dâng biểu xin 15 vạn hộc lương cứu cho dân bị đói, thu thập hài cốt 8000 quân sĩ tử trận trong cuộc chiến với Tư Mã Luân, lập lăng mộ, tế đường cho họ và mai táng cho Tư Mã Luân. Từ đó ông được mọi người trọng vọng.

Tư Mã Quýnh một mình cầm quyền trong triều, lại có ý chuyên quyền lấn vua, rồi chơi bời không lo chính sự. Tư Mã Dĩnh được lòng dân ủng hộ, Huệ đế lại xuống chiếu triệu ông về triều phụ chính. Tư Mã Dĩnh muốn đến Lạc Dương, nhưng mẹ ông là Trình thái phi nhớ Nghiệp thành nên ông chưa quyết định. Đến tháng 12 năm 302, Tư Mã Quýnh bị Trường Sa vương Tư Mã Nghệ (một người anh của Tư Mã Dĩnh) giết chết. Tư Mã Nghệ lên nắm quyền chính, làm Tư Mã Ngung và Tư Mã Dĩnh tức giận.

Năm 303, nghe tin Trương Xương nổi dậy giết chết Tân Dã công Tư Mã Hâm, Tư Mã Dĩnh bèn dâng biểu xin đánh Trương Xương. Được người dân ủng hộ, Tư Mã Dĩnh nhanh chóng dẹp được Trương Xương. Sau đó, Hà Gian vương Tư Mã Ngung cũng muốn đoạt quyền bính, bèn hợp tác với Tư Mã Dĩnh. Ngung sai Trương Phương vây Lạc Dương. Tư Mã Nghệ theo kế Tổ Địch, sai người mang thư tới Thứ sử Ung Châu Lưu Trầm, sai Trầm đánh vào Trường An là sào huyệt của Hà Gian vương Ngung.

Giữa lúc Trương Phương vây đánh lâu ngày núng thế không hạ được, định rút lui thì trong Kinh thành có biến. Đông Hải Vương Tư Mã Việt đố kỵ Tư Mã Nghệ, nói loan lên rằng Ngung và Vĩnh đánh thành không phải vì muốn hại Huệ Đế mà vì muốn giết Nghệ. Do đó trong thành theo lời Việt, bắt trói Nghệ, rồi giết chết ở thành Kim Dung.

Tư Mã Dĩnh vào kinh, ép Huệ Đế phong thêm cho mình 20 quận và lập làm Thừa tướng. Sau Tư Mã Ngung lấy chiếu của Huệ đế phế bỏ Dương Hậu và Thái tử Đàm, lập Dĩnh làm Hoàng thái đệ, và vẫn giữ chức Thừa tướng.

Mất ngôi Thái đệ

Từ sau khi được phong làm Thái đệ, Tư Mã Dĩnh tỏ ra kiêu căng, hống hách, làm mất lòng dân. Năm 304, Đông Hải vương Tư Mã Việt cùng các tướng Trần Mạch, Lục Bao đánh Tư Mã Dĩnh. Tư Mã Dĩnh thất bại, lui về Nghiệp Thành.

Tư Mã Việt nhân mới chiến thắng, đem theo Tấn Huệ đế đánh Nghiệp Thành. Tư Mã Dĩnh sai Thạch Siêu dẫn 5 vạn quân ra chống. Tư Mã Việt có ý chủ quan nên bị đại bại, bản thân Huệ đế bị bắn bị thương. Việt rút quân về Đông Hải Thạch Siêu đưa vua về Nghiệp Thành, đổi niên hiệu là Kiến Vũ. Đông An vương Tư Mã Dao do trước đó khuyên Tư Mã Dĩnh đầu hàng, cũng bị ông giết chết.

Tư Mã Dĩnh lấy chiếu của vua, tha tội cho Tư Mã Việt, cho giữ chức cũ nhưng Tư Mã Việt không về triều. Tướng Trần Mạch phò Thái tử cũ Tư Mã Đàm ở Lạc Dương, còn Tư Mã Ngung sai Trương Phương đem hai vạn quân giúp Tư Mã Dĩnh. Sau đó Tư Mã Việt đề nghị Thứ sử Tinh châu, Đông Doanh công Tư Mã Đằng và An Bắc tướng quân Vương Tuấn giết Tư Mã Dĩnh. Tư Mã Dĩnh bèn đem quân đánh Tư Mã Đằng. Đằng và Tuấn sai người liên hợp với các bộ tộc Ô Hoàn, Tiên Ty cùng đánh Tư Mã Dĩnh. Tư Mã Dĩnh cử U châu thứ sử Vương Bân và Thạch Siêu, Lý Nghị ra chống, lại triệu tướng Hung Nô là Lưu Uyên tới giúp sức, phong Uyên làm Bắc Thiền vu, tuy nhiên cuối cùng thất bại. Tư Mã Dĩnh hoảng hốt, đưa Tấn Huệ đế chạy về Lạc Dương, xưng là Thái đệ như cũ.

Tuy nhiên lúc bấy giờ Lạc Dương đang bị bộ tướng của Tư Mã Ngung là Trương Phương khống chế. Tư Mã Ngung ở Trường An, nghe tin Huệ Đế về Lạc Dương, sai Trương Phương mang quân vào Lạc Dương lấy danh nghĩa cứu giá. Phương thấy Lạc Dương bị tàn phá, không đủ lương, bèn ép mang Vua về theo Tư Mã Ngung ở Trường An.

Tháng 12 năm 304, Tư Mã Ngung lấy chiếu bãi chức Thái đệ của Tư Mã Dĩnh, ép trở về đất phong. Tư Mã Ngung nắm được triều đình, cải niên hiệu là Vĩnh Hưng, lập con thứ 25 của Tấn Vũ Đế (tức em út của Huệ đế và Tư Mã Dĩnh) làm Thái đệ.

Qua đời

Sau khi bị phế, Tư Mã Dĩnh được bộ tướng là Công Sư Phiên tiếp đón, bái làm Trấn quân đại tướng quân, Đô đốc Hà Bắc.

Tháng 6 năm 306, Tư Mã Việt đánh bại Tư Mã Ngung, nắm giữ Huệ đế. Cùng năm đó, Tư Mã Dĩnh đi về Lạc Dương, một số bộ tướng cũ của Dĩnh muốn dựng ông làm vua nhưng bị Tư Mã Hổ dẹp tan. Dĩnh chỉ còn trơ trọi ở Tân Hội.

Tư Mã Việt dùng chiếu sai Trấn nam tướng quân Lưu Hoằng và Nam trung lang tương Lưu Đào tróc nã Tư Mã Dĩnh. Sau đó, Công Sư Phiên cũng bị Tư Mã Hổ bắt sống. Bộ tướng của Tư Mã Ngung là Lưu Dư sợ Dĩnh gây hậu họa, bèn sai người đánh thuốc độc giết chết Dĩnh, rồi giết cả hai con ông.

Tư Mã Dĩnh thọ 28 tuổi. Không bao lâu sau, Tư Mã Ngung cũng qua đời, Tư Mã Việt trở thành người nắm chính trường. Loạn bát vương chấm dứt cũng là lúc triều đình Tây Tấn suy yếu trầm trọng, đến năm 318 thì diệt vong.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tư Mã Dĩnh** (chữ Hán:司马颖; 279 - 306), tên tự là **Chương Độ** (章度), là một vị tông thất nhà Tấn, một trong các chư hầu vương nhà Tây Tấn tham gia loạn bát vương
**Tư Mã Nghệ** (; 277 - 19 tháng 3 năm 304), tự _Sĩ Độ_ (士度) hoặc _Sĩ Khánh_ (仕庆), là một hoàng tử nhà Tấn, và từng giữ chức nhiếp chính trong thời gian ngắn
**Tư Mã Ngung** (chữ hán: 司馬顒) (?-306), tên tự là _Văn Tại (文 載)_, là tông thất nhà Tấn và có khoảng thời gian ngắn làm nhiếp chính cho Tấn Huệ Đế. Ông là người
**Tư Mã Nguyên Hiển** (chữ Hán: 司馬元顯, 382 - 402), tức **Cối Kê Trung thế tử**, tên tự là **Lãng Quân** (朗君), là tông thất và đại thần chấp chính dưới thời Đông Tấn trong
**Tư Mã Việt** (chữ Hán: 司馬越, ?-311), tức **Đông Hải Hiếu Hiến vương** (東海孝獻王), tự là **Nguyên Siêu** (元超), là tông thất của nhà Tấn, một trong tám vị chư hầu vương trong loạn bát
**Tư Mã Chiêu** (chữ Hán: 司馬昭; 211 – 6 tháng 9, 265), biểu tự **Tử Thượng** (子上), là một chính trị gia, quân sự gia, một quyền thần trứ danh thời kì cuối của nhà
**Tư Mã Duật** (chữ Hán: 司马遹; 278-300) biểu tự **Hi Tổ** (熙祖), tiểu tự **Sa Môn** (沙门) là tông thất nhà Tấn, hoàng thái tử của Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn
**Đầu tư cố định** vào _kinh tế_ là thu mua _vốn cố định_ mới được sản xuất. Nó được đo lường như một biến lưu lượng - nghĩa là, dưới dạng một lượng trên một
**Tư Mã Hân** (?-203 TCN) là tướng nhà Tần và vua chư hầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. ## Giúp Hạng Lương Theo Sử ký, Tư Mã Hân làm chức quan coi
thumb|right|**' (hay **'), tên tiếng Ả Rập của [[Bahrain.]] **__** (, cũng được chuyển tự là _el-_ như được phát âm trong một số dạng tiếng Ả Rập) là mạo từ xác định trong tiếng
**Tư Mã Luân** (chữ Hán: 司馬倫; 249 - 301, trị vì:3/2-30/5/301) làm vua 3 tháng (năm 301), tự là **Tử Di** (子彝) là vị vua thứ ba của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Tư Mã Huy** (chữ Hán: 司馬徽; 173-208), tự **Đức Tháo** (德操), hiệu **Thủy Kính** (水鏡), người đời hay gọi là "Thủy Kính tiên sinh", là một danh sĩ cuối thời Đông Hán (Hán mạt và
**Tư Mã Du** (司馬攸; 248-283), con thứ của Tư Mã Chiêu, em ruột Tư Mã Viêm, về sau Tư Mã Chiêu thấy anh mình là Tư Mã Sư không có con nên tặng ông cho
**Tư Mã Tương Như** (chữ Hán: 司馬相如; 179 TCN - 117 TCN), biểu tự **Trường Khanh** (長卿), là một thi nhân văn sĩ rất đa tài, văn hay, đàn giỏi đời Tây Hán. Ông nổi
**Tư Mã Quýnh** (chữ Hán: 司马冏, ?-302), tên tự là **Cảnh Trị** (景治) là một thân vương của nhà Tấn. Ông là một trong những Vương gia nhà Tấn gây ra Loạn bát vương, dẫn
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Tư Mã Thiên** ( hoặc ), biểu tự **Tử Trường** (), là một nhà sử học Trung Quốc sống vào đầu thời nhà Hán (206 TCN220). Ông được coi là cha đẻ của ngành sử
**Tư Mã Ý** (chữ Hán: 司馬懿; 179 – 7 tháng 9 năm 251), biểu tự **Trọng Đạt** (仲達), là nhà chính trị, nhà quân sự phục vụ nước Tào Ngụy thời kỳ Tam Quốc trong
**Tư Mã Đạo Tử** (chữ Hán: 司馬道子, 364 - 3 tháng 2 năm 403), tự là **Đạo Tử** (道子), là tông thất và đại thần dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất
**Tư Mã Quang** (Phồn thể: 司馬光; Giản thể: 司马光; bính âm: _Sima Guang_; Wade-Giles: _Szuma Kuang_; 1019–1086), tự **Quân Thật** 君實, hiệu **Vu Tẩu** 迂叟, là một nhà sử học, học giả Trung Quốc, thừa
**Đinh Hạng Lang** (chữ Hán: 丁項郎; ? - 979), là Thái tử nhà Đinh, con trai thứ hai của Vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Đinh Tiên Hoàng có
**Tư Mã Thượng Chi** (chữ Hán: 司馬尚之, ? - 402), tức **Tiều Trung vương** (譙忠王), tên tự là **Bá Đạo** (伯道), là đại thần, tông thất nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
**Tư Mã Vĩ** (chữ Hán: 司馬瑋; 271 - 13 tháng 6, 291) là con trai thứ năm của Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm (vị vua đầu tiên của nhà Tấn) và em trai Tấn
Thể loại:Bản mẫu thanh bên theo chủ đề **Tu Ma Na Phật** (Pāli:_Sumana Buddha_ | “Sumana" trong tiếng Pāli có nghĩa là "Người có tâm ý thiện lành" hoặc "Người vui vẻ, phúc
**Tư Mã Tử Như** (chữ Hán: 司馬子如, ? - ?), tên tự là **Tuân Nghiệp**, người huyện Ôn, quận Hà Nội , là quan viên nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề cuối đời Nam
**Tư Mã Vọng** (chữ Hán: 司马望, 205 – 17 tháng 6, 271), hiệu **Nghĩa Dương Thành vương** (义阳成王), tự **Tử Sơ** (子初), người huyện Ôn, quận Hà Nội , tướng lãnh, tam công cuối đời
**Tư Mã Phu** (chữ Hán: 司馬孚; 180 - 3 tháng 4, 272), biểu tự **Thúc Đạt** (叔達), là một nhà chính trị, nhà quân sự sống qua đời Đông Hán, Tào Ngụy và là một
**Tư Mã Lãng** (chữ Hán: 司馬朗; 171-217), biểu tự **Bá Đạt** (伯達), là một quan lại cuối đời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc. Ông là anh ruột của Tư Mã Ý, quyền thần nhà
**Đinh Liễn** (chữ Hán: 丁璉; 945 - Tháng 10, 979) hay **Đinh Khuông Liễn** (丁匡璉), là một hoàng tử nhà Đinh, con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh, vị Hoàng đế khai sáng ra triều
Phù Phong Vũ vương **Tư Mã Tuấn** (chữ Hán: 司马骏, 232 – 286), tự **Tử Tang**, người huyện Ôn, quận Hà Nội tướng lãnh, hoàng thân nhà Tây Tấn. ## Xuất thân Tuấn là một
**Tư Mã Lượng** (司馬亮) (mất 291) tên tự _Tử Dực_ (子翼), tước hiệu _Nhữ Nam Văn Thành vương_(汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ
**Tư Mã Hi** (chữ Hán: 司馬晞, 316 - 381), tức **Vũ Lăng Uy vương,** tên tự là **Đạo Thúc** (道叔), là đại thần, tông thất nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Tư Mã Sở Chi** (, 390 – 464) là đại tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Tư Mã Sở Chi có tên tự là Đức
**Ma** hay **MA** có thể chỉ đến một trong các khái niệm sau: *Ma - một khái niệm về phần phi vật chất của một người hoặc động vật đã chết. *Ma trơi - hiện
thumb|[[Bộ tứ mã của thánh Marco ở Venezia, bản sao của điêu khắc tứ mã duy nhất của thời cổ đại còn tồn tại]] **Chiến xa tứ mã** (, có nguồn gốc từ từ _quattuor_
**Tư Mã Duệ** (chữ Hán: 司马裔, 507 – 571), tên tự là **Tuân Dận**, người huyện Ôn, quận Hà Nội là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều trong lịch
**Tư Mã Lệnh Cơ** (chữ Hán: 司馬令姬) là hoàng hậu của Bắc Chu Tĩnh Đế (北周靜帝) Vũ Văn Xiển (宇文闡), vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Kem Nâng Nở Ngực Nagano Japan 100ml - Firming Bust Cream - Giúp nỡ ngực một cách tự nhiên, định hình khuôn ngực nở nang, săn chắc>Giới thiệu sản phẩm:- Không phải ai sinh ra
thumb|Bản sao Bộ tứ mã của thánh Marco thumb|Bản gốc Bộ tứ mã trong bảo tàng viện **Bộ tứ mã của thánh Marco** (), (còn được gọi là **Triumphal Quadriga**) là một bộ tượng bằng
**Tư Mã Thác** (chữ Hán: 司馬錯; ? - ?) là tướng lĩnh nước Tần cuối thời kỳ Chiến Quốc, người Hạ Dương, làm quan trải qua ba đời vua Huệ vương, Vũ vương và Chiêu
**Tư Mã** (chữ Hán: 司馬, Bính âm: Sima, Wade-Giles: Ssu-ma) là một họ của người Trung Quốc. Họ này là một trong 60 họ kép (gồm hai chữ) trong danh sách _Bách gia tính_. ##
**Tư Mã Sư** (chữ Hán: 司馬師; 207 - 255), biểu tự **Tử Nguyên** (子元), là một chính trị gia, quân sự gia, quyền thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Bộ tự mã hóa** (tiếng Anh: **autoencoder**) là một dạng mạng thần kinh nhân tạo được dùng để học các mã hóa dữ liệu hiệu quả theo cách học không có giám sát. Mục tiêu
**Tư Mã Tiêu Nan** (chữ Hán: 司马消难, ? – ?), tên tự là **Đạo Dung**, người huyện Ôn, quận Hà Nội , là quan viên các nước Bắc Tề, Bắc Chu của Bắc triều, nước
**Tư Mã Thượng** (; ? - ?), là tướng lĩnh nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Năm 230 TCN, nhân lúc nước Triệu gặp nạn hạn hán, nước
**Tư Mã Hưu Chi** (chữ Hán: 司馬休之, ? - 417), tự **Quý Dự**, người huyện Ôn, Hà Nội , nhân vật chính trị cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
nhỏ|Tư Mã pháp **Tư Mã pháp** () là một bộ binh pháp của Tư Mã Nhương Thư, được nằm trong Võ kinh thất thư của Trung Hoa cổ đại. Bộ binh pháp này được phát
**Ismail** (, ; ? - 1274), là kỹ sư, tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch sử, một trong những nhà phát minh ra Hồi hồi pháo (回回炮). ## Tiểu sử Diệc Tư Mã Nhân, người
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt