✨Tư Mã Duật

Tư Mã Duật

Tư Mã Duật (chữ Hán: 司马遹; 278-300) biểu tự Hi Tổ (熙祖), tiểu tự Sa Môn (沙门) là tông thất nhà Tấn, hoàng thái tử của Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông bị Hoàng hậu Giả Nam Phong phế truất và sát hại năm 300, sau được truy tôn là Mẫn Hoài thái tử. Cái chết của ông cũng châm ngòi cho loạn bát vương đầu thời nhà Tấn.

Thân thế và thuở nhỏ

Tư Mã Duật là con trai trưởng của Tấn Huệ Đế, vua thứ hai của nhà Tấn với cung nhân Tạ Cửu. Năm 271 TCN, Tư Mã Trung (tức Tấn Huệ Đế, lúc đó đang làm thái tử) lấy con gái đại thần Giả Sung là Giả Nam Phong, phong làm vợ đích, nhưng Giả Nam Phong chỉ sinh toàn con gái, mà đến năm 278 thì Tạ Cửu lại sinh ra con trai là Tư Mã Duật.

Tư Mã Duật từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ, được vua ông là Tấn Vũ đế yêu quý. Do đó mặc dù thấy Tư Mã Trung bị thiểu năng trí tuệ, nhưng Tấn Vũ đế và Dương Hoàng hậu vẫn giữ ngôi thái tử, vì họ cho rằng tuy con dốt nhưng cháu giỏi thì sau này có thể giúp con, vì vậy càng thôi ý định thay thái tử.

Sau đó Tấn Vũ đế phong cho Tư Mã Duật làm Quảng Lăng vương, phong địa 5 vạn hộ, lại cho đại thần Lưu Thực làm thầy cho ông. Huệ đế phong cho Tạ tài nhân làm Thục phi, Tư Mã Duật làm thái tử. Huệ Đế cho tuyển những lão thần như Hà Thiệu làm thái sư, Vương Nhung làm thái phó, Dương Tế làm Thái bảo dạy học cho Tư Mã Duật, lại tuyển Bùi Hiến và Trương Huy Hòa cùng học với ông.

Tư Mã Duật tuy hồi nhỏ thông minh, nhưng lớn lên lại không thích học hành, cũng không tôn kính thầy dạy. Giả Nam Phong (lúc này đã làm Hoàng hậu) muốn toàn quyền nắm triều chính, thường sai người đến dụ dỗ ông không tham gia triều chính. Tuy Giang Thống và Đỗ Tích Đô khuyên ngăn nhưng ông không nghe.

Kết oán với họ Giả

Tư Mã Duật tính tình cương nghị, lại sinh được ba con trai, nhưng ông ít quan tâm đến triều chính. Bấy giờ Giả Nam Phong thấy Huệ đế ngu ngốc, muốn khống chế triều chính. Chiêm sự Bùi Quyền thấy vậy khuyên ngăn ông nên kết thân với họ Giả để đề phòng hậu hoạn nhưng ông không nghe.

Em gái Giả hậu là Giả Ngọ được gả cho Hàn Thọ, cũng sinh được một con gái. Quách Hoè lại khuyên Giả hậu nên gả cháu gái đó cho Tư Mã Duật để ràng buộc. Nhưng Giả hậu lẫn vợ chồng Giả Ngọ đều không tán thành.

Quách Hoè lại khuyên Giả hậu lấy con gái lớn của tư đồ Vương Diễn cho thái tử Duật để lấy lòng, nhưng Giả hậu lại lấy cô chị xinh đẹp cho em mình là Giả Thuỵ, và lấy cô em là Vương Huệ Phong xấu xí cho thái tử Duật. Thái tử biết chuyện nên căm ghét Giả hậu.

Có lần Tư Mã Duật cùng Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh và Giả Mật đi du ngoạn, có xung đột với Giả Mật. Tư Mã Dĩnh bèn trách Giả Mật vô lễ với thái tử. Giả Mật tức giận, khuyên Giả Nam Phong phế thái tử. Giả hậu nghe theo, công khai tuyên bố khuyết điểm của Tư Mã Duật ra ngoài để mọi người biết. Trung Lĩnh quân Triệu Tuấn khuyên Tư Mã Duật ép vua cha phế hậu nhưng ông không nghe.

Bị phế và bị giết

Bùi Ngỗi, Giả Mô thấy Giả hậu thù địch với thái tử nên rất lo lắng, sợ trong triều sẽ xảy ra biến loạn, bèn bàn với Trương Hoa định phế bỏ Giả hậu, lập Tạ Thục phi là mẹ ruột của thái tử Duật lên thay. Thủ hạ của thái tử Duật là Lưu Biện cũng chủ trương làm binh biến để phế Giả hậu, cũng bàn với Trương Hoa. Tuy nhiên lão thần Trương Hoa muốn yên phận, lại thoái thác rằng chưa từng nghe Giả hậu có ý phế thái tử, do đó không nên gây hấn. Bản thân thái tử Duật cũng không quyết đoán việc binh biến. Do đó việc lật đổ không được thực hiện.

Trương Hoa tiết lộ mưu của Lưu Biện cho Giả hậu, Biện bị điều ra làm quan ở ngoài. Biết mình không thoát khỏi tay Giả hậu, Lưu Biện uống thuốc độc tự sát.

Tháng 12 năm 299, Giả Nam Phong bắt đầu tìm cách hãm hại Tư Mã Duật. Bà ta sai tì nữ Trần Vũ Tứ chuốc rược cho ông say, rồi lừa viết bức thư phản nghịch. Thái tử Duật vì quá say không biết gì nên cứ thế chép lại nội dung do Giả hậu soạn sẵn. Giả hậu mang thư cho Huệ Đế xem để có cớ bỏ thái tử. Huệ Đế ban đầu muốn giết thái tử, nhưng các đại thần Trương Hoa và Bùi Ngỗi phản đối, cho rằng đó không phải là kiểu văn mà ông thường làm. Giả hậu bèn tâu phế Tư Mã Duật làm thứ dân. Sau đó, Giả hậu sai Tư Mã Đạm đưa Tư Mã Duật, Vương Huệ Phong và ba con ông ra an trí ở thành Kim Dung. Mẹ thái tử là Tạ phi cũng bị tống giam và tra tấn tới chết.

Sau khi Tư Mã Duật bị phế, các đại thần đứng lên phản đối. Trung Hữu vệ Đốc Tư Mã Nhã và Thường Tòng đốc Hứa Siêu, Điện trung Trung lang Sĩ Ý muốn phục ngôi thái tử, bèn nhờ cậy Triệu vương Tư Mã Luân. Nhưng Luân sợ thái tử là người khó khống chế, nên nghe theo lời mưu sĩ Tôn Tú, bèn phao tin rằng triều thần muốn phục ngôi thái tử để phế Giả hậu.

Giả hậu sợ hãi, nảy sinh ý định giết Tư Mã Duật. Tháng 3 năm 300, bà ta sai Thái ý lệnh Trình Cứ làm loại độc dược là ba đậu hạnh tử hoàn rồi sai Hoàng môn Tôn Lự Trai đến Hứa Xương hạ độc thái tử để tuyệt đi lòng mong đợi của triều thần.

Trong cung của Tư Mã Duật có người nếm thức ăn để thử độc, Tôn Lự chỉ có cách bức ép thẳng tay, bắt ông ăn thức ăn có độc. Tư Mã Duật hô vang cho người bên ngoài biết, tuy nhiên chỉ một lúc sau thì ông qua đời.

Tư Mã Duật hưởng thọ 23 tuổi (278-300). Sau khi ông mất, Giả hậu sai chôn cất ở Hứa Xương theo lễ của Quảng Lăng vương, rồi giết Lưu Chấn, Tôn Lự và Trình Cứ để bịt đầu mối.

Sau khi qua đời

Cái chết của Tư Mã Duật đã làm bùng lên loạn bát vương. Cùng năm 300, Triệu vương Tư Mã Luân lấy cớ báo thù cho ông đem quân tấn công vào cung, giết Giả hậu. Kể từ đó, các chư hầu vương bắt đầu nổi dậy, tranh quyền lẫn nhau gây ra bạo loạn khắp nơi. Lợi dụng cơ hội đó, năm 316, quân Hán Triệu ở miền Bắc chiếm được Lạc Dương, tiêu diệt Tây Tấn.

Gia đình

Cha: Tấn Hiếu Huệ đế Tư Mã Trung (司马衷) Mẹ: Tạ Cửu (谢玖) (sau được phong làm Tài nhân rồi Thục phi) Thê thiếp Vương Huệ Phong (王惠风), con gái Thái úy Vương Diễn (王衍) Tưởng Tuấn (蒋俊) Con cái Tư Mã Bình (司马虨), mất năm 300, được truy tôn làm Nam Dương vương (南阳王) Tư Mã Tang (司马臧), ban đầu được phong làm Lâm Hoài vương (临淮王), sau khi Giả hậu bị giết được phong làm Hoàng Thái tôn, sau bị Tư Mã Luân phế làm Bộc Dương vương (濮阳王) **Tư Mã Thượng (司马尚), được phong làm Tương Dương vương (襄阳王), sau khi Tư Mã Luân bị lật đổ, Tư Mã Trung phục vị, lập thành Hoàng Thái tôn.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tư Mã Duật** (chữ Hán: 司马遹; 278-300) biểu tự **Hi Tổ** (熙祖), tiểu tự **Sa Môn** (沙门) là tông thất nhà Tấn, hoàng thái tử của Tấn Huệ đế, vua thứ hai của nhà Tấn
**Tư Mã Luân** (chữ Hán: 司馬倫; 249 - 301, trị vì:3/2-30/5/301) làm vua 3 tháng (năm 301), tự là **Tử Di** (子彝) là vị vua thứ ba của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Tư Mã Dĩnh** (chữ Hán:司马颖; 279 - 306), tên tự là **Chương Độ** (章度), là một vị tông thất nhà Tấn, một trong các chư hầu vương nhà Tây Tấn tham gia loạn bát vương
**Tư Mã Vĩ** (chữ Hán: 司馬瑋; 271 - 13 tháng 6, 291) là con trai thứ năm của Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm (vị vua đầu tiên của nhà Tấn) và em trai Tấn
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Thái tử** (chữ Hán: 太子), đầy đủ là **Hoàng thái tử** (皇太子) hay **Vương thái tử** (王太子), là danh vị dành cho Trữ quân kế thừa cho một vị Vua trong các quốc gia thuộc
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301), tên tự là **Tuấn Trung**, nguyên quán là quận Lang Gia, quan viên nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là bộ hạ thân tín
**Hoài Thái tử** (_chữ Hán_:怀太子) là thụy hiệu của một số vị thái tử trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Mẫn Hoài thái tử Tư Mã Duật (hoàng
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
thumb|_Ma cà rồng_, tranh vẽ bởi [[Philip Burne-Jones, 1897]] **Ma cà rồng** là cách gọi một sinh vật huyền huyễn được truyền tụng từ lâu trong ký ức dân gian, loài này được cho là
**Ô Mã Nhi** (, _Omar_) là một viên tướng Nguyên Mông trong cuộc chiến tranh giữa nhà Nguyên và Đại Việt. ## Thân thế Ô Mã Nhi là người Semu, con trai của tổng đốc
**Tam thiên tự lịch đại văn Quốc âm** (三千字歷代文國音) là một cuốn sách Nôm. Bản còn giữ được có niên đại xuất bản năm Thiệu Trị thứ 5 (1815), do nhà sư Phúc Điền tổ
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
Tập tin:Cour Napoléon seen from the pavillon de l'Horloge, Louvre 8 July 2016.jpg Kim tự tháp kính Louvre **Kim tự tháp kính Louvre** (tên tiếng Pháp: **_Pyramide du Louvre_**) là một kim tự tháp được
**Xứ Thái** (tiếng Thái: _Chau Thai_; tiếng Pháp: _Pays Taï_), hoặc **Khu Tự trị Thái** (tiếng Thái: สิบสองจุไทย (Mười hai xứ Thái); tiếng Pháp: _Territoire autonome Taï_, **TAT**) là một lãnh địa tự trị tồn
- Xuất phát từ thực trạng khó khăn trong việc xử lý nợ ngân hàng do sự đối lập về quyền lợi giữa Người Bị Nợ và Ngân Hàng dẫn đến cả Người Bị Nợ
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Giả Nam Phong** (chữ Hán: 賈南風) (257-300) là hoàng hậu dưới triều Tấn Huệ Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà đã thao túng triều đình Tây Tấn, hãm hại hàng loạt tông thất để
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Phạm Thận Duật (_范慎遹_, 1825–1885)** là một nhà chính trị, nhà ngoại giao, một học giả và một trí thức lớn có tầm vóc của Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX.
**Cuồng Duật** (chữ Hán: 狂矞) là một vị ẩn sĩ sống vào cuối đời nhà Thương và đầu thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, tương truyền ông rất tinh tường thiên văn địa
**Phạm Tiến Duật** (1941 - 2007) là nhà thơ Việt Nam, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật vào năm 2012 và được tặng Giải thưởng Nhà nước về
**Minh Thiệu Tông** (chữ Hán: 明紹宗; 25 tháng 5 năm 1602 - 6 tháng 10 năm 1646) hay **Long Vũ đế** (隆武帝), cai trị trong 2 năm 1645 và 1646, tên của ông là **Chu
**Khương Tử Nha** (chữ Hán: 姜子牙, 1156 TCN - 1017 TCN), tính **Khương** (姜), thị **Lã** (呂), tên **Thượng** (尚), tự **Tử Nha** (子牙), lại được gọi là **Thượng Phụ** (尚父), là khai quốc công
**Ân Trọng Kham** (chữ Hán: 殷仲堪, ? - 399), nguyên quán ở Trần quận, là đại thần, tướng lĩnh dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân và thời trẻ Gia
**Huy Tư Hoàng phi** (chữ Hán: 徽思皇妃, ?-1359), họ Trần, vốn ban đầu mang họ Lê, còn được biết đến với danh hiệu **Chiêu Từ Hoàng thái hậu** (昭慈皇太后), là một phi tần của Trần
nhỏ|290x290px|Duat **Duat** (tiếng Ai Cập cổ đại: _dwꜣt_, phát âm "do-aht", Coptic: ⲧⲏ, còn xuất hiện như _Tuat_, _Tuaut_ hoặc _Akert_, _Amenthes_, _Amenti_ hoặc _Neter-khertet_) là thế giới ngầm trong thần thoại Ai Cập. Nó
**Trương Hoa** (chữ Hán: 张华, 232 – 300) là quan viên, nhà văn thời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Quá trình thăng tiến Hoa tự Mậu Tiên, người huyện Phương Thành, quận
**Đỗ Duật Minh** (giản thể: 杜聿明; bính âm: Dù Yùmíng; 1903–1981) là một tư lệnh chiến trường Quốc dân đảng trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ 2 và Nội chiến Trung Hoa từ 1945 -
**Dương Hiến Dung** (chữ Hán: 羊獻容, ? - 322), người huyện Nam Thành, quận Thái Sơn, là hoàng hậu của hai vị hoàng đế là Tấn Huệ Đế của nhà Tây Tấn và Lưu Diệu
**Buôn Ma Thuột** (còn được viết là **Ban Mê Thuột**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Đây là thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên và là đô
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
**Tiêu Bảo Dần/Di** (; 483 – 530) , tự **Trí Lượng** (智亮), hoàng tử nhà Nam Tề, nhà chính trị, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Vương Sưởng** (chữ Hán: 王昶, ? – 259) tự **Văn Thư**, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Thiếu thời Bác của Sưởng là Nhu,
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Học phi Nguyễn Văn thị** (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là **Huy Thuận Học phi** (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn
**Vệ Giới** (chữ Hán: 卫玠, 286 – 312), tự Thúc Bảo, người huyện An Ấp, quận Hà Đông , danh sĩ, mỹ nam cuối đời Tây Tấn. ## Thân thế và gia đình Ông cụ
**Tư duy Chiến tranh Lạnh** (chữ Anh: Cold War mentality) nghĩa rộng chỉ một kiểu mẫu tư duy về xử lí quan hệ giữa các nước và giải quyết tranh chấp quốc tế vì nguyên
**Thục phi** (chữ Hán: 淑妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. ## Trung Quốc ### Tấn * Thục phi Lưu Viện, phi tần
**Trần Đức Diệp** (; 1265 – 1306), thường gọi là **Trần Đức Việp**, là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Đức Diệp
**Tuyên Từ hoàng thái hậu** (chữ Hán: 宣慈皇太后, ? - 14 tháng 9, 1318), là hoàng hậu thứ hai của Trần Nhân Tông. ## Tiểu sử Hầu như không có nhiều thông tin về bà.
Là một doanh nghiệp trẻ trong lĩnh vực tư vấn du học, Việt Chí mong muốn góp một phần nhỏ trong công cuộc đào tạo hiền tài cho quốc gia, thông qua việc đưa ra
Là một doanh nghiệp trẻ trong lĩnh vực tư vấn du học, Việt Chí mong muốn góp một phần nhỏ trong công cuộc đào tạo hiền tài cho quốc gia, thông qua việc đưa ra
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung