✨Huy Tư Hoàng phi

Huy Tư Hoàng phi

Huy Tư Hoàng phi (chữ Hán: 徽思皇妃, ?-1359), họ Trần, vốn ban đầu mang họ Lê, còn được biết đến với danh hiệu Chiêu Từ Hoàng thái hậu (昭慈皇太后), là một phi tần của Trần Anh Tông trong lịch sử Việt Nam. Bà là sinh mẫu của Trần Minh Tông Trần Mạnh.

Chiêu Từ Hoàng hậu chưa từng làm Hoàng hậu khi còn sống, với tư cách là sinh mẫu của Minh Tông, bà chỉ được tấn tôn làm Hoàng thái phi, do ở trên còn có Đích mẫu Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng thái hậu. Sau khi qua đời, Hoàng thái phi Trần thị mới được truy phong làm Hoàng thái hậu.

Xuất thân cao quý

Chiêu Từ Hoàng hậu xuất thân cao môn, bà là con gái duy nhất của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và Thụy Bảo công chúa- Hoàng nữ thứ ba của Trần Thái Tông Trần Cảnh. Từ nhỏ, bà đã được phong làm Quận chúa, hiệu xưng Chiêu Hiến (昭憲). Trần Bình Trọng là vị đã nổi tiếng với câu nói: " Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm vào vương đất Bắc", hi sinh rất oanh liệt trên chiến trường. Tuy nhiên, về người mẹ là Thụy Bảo công chúa thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư chép Chiêu Từ Hoàng hậu là con gái của Thụy Bảo công chúa, tuy không nói rõ là có phải con gái ruột hay không. Nhiều nguồn sử ghi rằng Thụy Bảo công chúa góa chồng (phu quân đời trước của công chúa là Uy Văn vương Trần Toại bệnh mất sớm) và Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng góa vợ (?), vua Trần Thánh Tông thương dũng tướng cùng cô em ruột phủ viện cao mà cô đơn vắng vẻ, lại xót Quận chúa Chiêu Hiến từ nhỏ mồ côi mẹ nên ban hôn cho hai người về một nhà. Như vậy, Quận chúa Chiêu Hiến không phải là con gái ruột của Thụy Bảo công chúa mà là con của vợ trước Trần Bình Trọng. Tuy vậy, điều đó cũng không ảnh hưởng gì khi Thụy Bảo công chúa yêu thương Chiêu Hiến Quận chúa như con gái ruột và một mình nuôi nấng Quận chúa nên người.

Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng vốn mang họ Lê, nên Chiêu Từ Hoàng hậu cùng với Chiêu Thánh Lý phế hậu, Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu là một trong những Hoàng hậu ngoại tộc hiếm hoi của Trần triều. Ngoài ra, rất có khả năng Trần Bình Trọng là con trai của phu nhân Lý Chiêu Hoàng và Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần, nên xét ra Chiêu Từ Hoàng hậu là cháu nội của Lý Chiêu Hoàng. Nếu như giả thuyết này là đúng, Lý Chiêu Hoàng là tổ mẫu nhiều đời của Trần triều và Chiêu Từ Hoàng hậu còn có một người cô ruột là Ứng Thụy công chúa Lê Ngọc Khuê.

Cuộc đời

Tháng 2 (âm lịch) năm 1285, Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng hi sinh, được truy phong làm Bảo Nghĩa vương (保義王), Chiêu Hiến Quận chúa lại mất cha. Bảo Nghĩa Vương phi một lần nữa góa bụa, chỉ lấy việc nuôi Chiêu Hiến Quận chúa làm niềm vui trong cuộc sống. Ngày 9 tháng 3 âm lịch năm Quý Tỵ (tức ngày 16 tháng 4 năm 1293), Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên, tức Hoàng đế Trần Anh Tông, lấy niên hiệu là Hưng Long (興隆) và sử dụng nó đến hết thời trị vì của mình. Trần Anh Tông thấy Quận chúa Chiêu Hiến nết na, xinh đẹp, lại được sự đồng thuận của Bảo Nghĩa Vương phi nên tuyên vào cung làm phi, phong hiệu là Huy Tư Hoàng phi (徽思皇妃). Vừa vào cung đã có danh vị Hoàng phi dù không hề xuất thân từ hoàng tộc, Chiêu Hiến Quận chúa thật sự đắc sủng, vinh quang phi thường. Khi nhập cung, Huy Tư Hoàng phi rất được Anh Tông cùng Bảo Từ Hoàng hậu sủng ái, thiên vị, qua đó có thể thấy Hoàng phi là một người xuất sắc về ngoại hình và phẩm cách. Đặc biệt Bảo Từ Hoàng hậu đối với Huy Tư Hoàng phi không hề tỏ ra ghen ghét đố kị mà còn hết mực thương yêu. Có lần Bảo Từ Hoàng hậu thấy Huy Tư phi theo hầu Anh Tông đường xa mà không có kiệu, phá lệ đem cho bà kiệu liễn vốn chỉ dành cho Hoàng hậu ngồi. Tuy nhiên điều này đã bị Anh Tông ngăn cản.

Đại Việt sử ký toàn thư chép:

" Dạo nọ, Huy Tư Hoàng phi đi theo hầu Anh Tông, lệ chưa được đi kiệu. Hoàng hậu lấy kiệu của mình cho Huy Tư đi thì Anh Tông, vốn rất nghiêm khắc tôn ti trật tự, nhắc nhở:'Bảo Từ có yêu quý Huy Tư thì cho cái khác, chứ cái kiệu ngồi còn điển chế cũ, không thể cho được'."

Ngày 4 tháng 10 năm 1300 (tức ngày 21 tháng 8 âm lịch năm Canh Tý), Huy Tư Hoàng phi hạ sinh Hoàng tử Trần Mạnh (陳奣). Trần Mạnh được ghi nhận là Hoàng tử duy nhất còn sống khỏe mạnh của Trần Anh Tông. Lo sợ Hoàng tử khó nuôi, chết yểu, Anh Tông giữ Hoàng tử kĩ lắm, bèn giao cho mẹ vợ là Bảo Nghĩa Vương phi nuôi dưỡng, nhưng Vương phi cho rằng mình đang gặp hạn nên không thể nuôi Hoàng tử. Vì vậy Trần Mạnh được giao cho anh trai của Vương phi là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật nuôi nấng. Theo ghi chép, Trần Nhật Duật đã chăm nuôi Hoàng tử Mạnh rất chu đáo. Nhật Duật còn đặt tên cho hoàng tử là Thánh Sinh (聖生) để giống với con trai mình là Thánh Nô (聖安) và con gái là Thánh An (聖奴). Sau này, khi Minh Tông làm vua, ông đã phong Trần Nhật Duật làm Tá thánh Thái sư đứng đầu triều đình (1324), gia phong Đại vương (1329).

Tháng 1 âm lịch năm 1305, Trần Mạnh được vua cha tấn phong làm Đông cung Hoàng thái tử. Anh Tông còn tặng cho Hoàng thái tử một bài giáo huấn mang tên Dược thạch châm, do nhà vua tự soạn. Sử chép năm 1305 Trần Mạnh là Đông cung Thái tử, nhưng đến tháng 1 âm lịch năm 1309 lại chép Đông cung Thái tử Mạnh được sách phong làm Hoàng thái tử. Trong lịch sử nhà Trần, Trần Mạnh là thái tử kế vị đầu tiên không phải do vợ chính của vua cha sinh ra, trong khi các vua Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông đều là con của chính thất Hoàng hậu.

Ngày 18 tháng 3 âm lịch năm Giáp Dần (tức ngày 3 tháng 4 năm 1314), Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh. Thái tử 14 tuổi lên ngôi Hoàng đế, là vua Trần Minh Tông, tự xưng là Ninh Hoàng_ (寧皇), tôn Anh Tông làm Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái thượng hoàng đế và tôn Bảo Từ Hoàng hậu làm Thuận Thánh Bảo Từ Thái Thượng Hoàng hậu. Mẹ ruột của Tân đế, Huy Tư Hoàng phi cũng được tấn tôn làm thái thượng hoàng phi._

Năm 1320) Thượng hoàng Trần Anh Tông qua đời. Lúc rước linh cữu Anh Tông về Thiên Trường (Nam Định), theo lễ, thuyền của Bảo Từ Hoàng thái hậu được dùng tám dải lụa kể kéo, thuyền của Huy Tư Thái phi chỉ có hai dải. Người coi cấm quân có ý nịnh, lấy lụa buộc thêm cho Huy Tư Thái phi, Bảo Từ Hoàng thái hậu biết chuyện, cũng không để bụng.

Năm Khai Hựu thứ 2 (1330), tháng 7, mùa thu, Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng thái hậu băng ở am Mộc Cảo, ấp Yên Sinh. Hoàng thái phi Trần thị trở thành người ở ngôi cao nhất cung cấm.

Ngày 19 tháng 2 âm lịch (10 tháng 3 dương lịch) năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời tại cung Bảo Nguyên, hưởng thọ 57 tuổi. Hai năm sau đó (1359), Huy Tư Hoàng thái phi Trần thị quy tiên, được triều thần dâng tôn hiệu là Chiêu Từ Hoàng thái hậu (昭慈皇太后).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Huy Tư Hoàng phi** (chữ Hán: 徽思皇妃, ?-1359), họ Trần, vốn ban đầu mang họ Lê, còn được biết đến với danh hiệu **Chiêu Từ Hoàng thái hậu** (昭慈皇太后), là một phi tần của Trần
**Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 保慈順聖皇后, ? - tháng 7, 1330), là Hoàng hậu của Trần Anh Tông, mẹ đích của Trần Minh Tông. ## Tiểu sử Hoàng hậu là con gái
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Từ Hoảng** (chữ Hán: 徐晃; bính âm: _Xu Huang_; (169-228), tự **Công Minh** (公明), là danh tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong đời binh nghiệp, Từ Hoảng thể
**Minh Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 明慈皇太妃; ?– 1365), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Anh Tư Phu nhân** (英姿夫人) hay **Anh Tư Nguyên phi** (英姿元妃), là một cung
**_Hoàng Phi Hồng_** (chữ Hán: 黃飛鴻, tựa tiếng Anh: **Once Upon a Time in China**) là một bộ phim hành động - võ thuật Hồng Kông của đạo diễn Từ Khắc, phát hành vào năm
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Đệ Tam Cung phi** (chữ Hán: 第三宮妃, Canh Thìn 1280 - 14 tháng 4 năm Mậu Tuất), họ Nguyễn, húy **Nguyệt Ảnh** (月影), thông gọi **Bà Chúa Muối,** là một phi tần của Trần Anh
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**_Hoàng Phi Hồng 2: Nam Nhi Đương Tự Cường_** (tiếng Anh: _Once Upon a Time in China II_; tiếng Trung Quốc: 男兒當自強) là một bộ phim võ thuật Hồng Kông năm 1992 do đạo diễn
**Đôn Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 惇慈皇太妃; ? – 1347), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Quang Hiến Thần phi** (光憲宸妃), là một thứ phi của vua Trần Minh
**_Hoàng Phi Hồng: Bí ẩn một huyền thoại_** (tiếng Trung: 黃飛鴻之英雄有夢, tiếng Anh: _Rise of the Legend_, Hán-Việt: _Hoàng Phi Hồng: Anh hùng hữu mộng_) là một bộ phim điện ảnh Hồng Kông – Trung
**Khuynh thế hoàng phi** (phồn thể: 傾世皇妃, bính âm: Qīng Shì Huáng Fēi) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc, cốt truyện dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mộ Dung
**Khâm Từ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:欽慈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tống Thần Tông Khâm Từ
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**An Huy** (, IPA:_ánxwéi_) là một tỉnh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2020, An Huy là tỉnh đông thứ tám về số dân, đứng thứ 11 về kinh tế Trung Quốc với
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Không quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Aviation Royale Laotienne_ – AVRL; tiếng Anh: _Royal Lao Air Force_), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
**Linh Từ Quốc mẫu** (chữ Hán: 靈慈國母,1193[?]–1259), hay còn gọi là **Kiến Gia Hoàng hậu** (建嘉皇后), **Thuận Trinh Hoàng hậu** (順貞皇后) hay **Huệ hậu** (惠后), là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý với tư
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
phải|Hoàng cung ở [[thủ đô Bangkok.]] nhỏ|Nhà nguyện Phật ngọc lục bảo. phải|Wat Phra Kaew nhìn từ Hoàng cung. **Cung điện Hoàng gia Thái Lan** ở Băng Cốc (tiếng Thái: พระบรมมหาราชวัง _Phra Borom Maha Ratcha
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**Phạm Phi Nhung** (10 tháng 4 năm 1970 – 28 tháng 9 năm 2021), ### Sự nghiệp phát triển Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của