✨Không quân Hoàng gia Lào

Không quân Hoàng gia Lào

Không quân Hoàng gia Lào (tiếng Pháp: Aviation Royale Laotienne – AVRL; tiếng Anh: Royal Lao Air Force), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của Chính phủ Hoàng gia Lào và Vương quốc Lào trong cuộc nội chiến Lào từ năm 1960-1975.

Cơ cấu

Không quân Hoàng gia Lào cùng với Thủy quân Hoàng gia Lào và Lục quân Hoàng gia Lào được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc phòng Hoàng gia Lào tại thủ đô Viêng Chăn. Không quân Hoàng gia Lào đã tiếp nhận viện trợ suốt những năm qua chủ yếu là từ Pháp, Mỹ và Thái Lan. Ban đầu tổ chức vận tải bắt đầu hoạt động với loại máy bay Morane-Saulnier MS.500 Criquet và sau đó là C-47, các loại sở hữu khả năng tấn công hạng nhẹ gồm T-6 Texan Bắc Mỹ và về sau là T-28 Trojan.

Danh sách Đại sứ Mỹ tại Lào trong Nội chiến Lào

Ngày 29 tháng 5 năm 1961, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã đưa một lá thư chỉ thị cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào Leonard S. Unger được quyền kiểm soát "...tất cả các chức năng của một Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG)...". Như vậy viên Đại sứ phục vụ trên thực tế đã trở thành chỉ huy của Không lực Hoàng gia Lào trong cuộc nội chiến Lào; và nó chỉ tồn tại nhờ sự ủng hộ của Mỹ từ năm 1962 đến năm 1975.

  • Leonard S. Unger (25 tháng 7 năm 1962 – 1 tháng 12 năm 1964)
  • William H. Sullivan (23 tháng 12 năm 1964 – 18 tháng 3 năm 1969)
  • G. McMurtrie Godley (24 tháng 7 năm 1969 – 23 tháng 4 năm 1973)
  • Charles S. Whitehouse (20 tháng 9 năm 1973 – 12 tháng 4 năm 1975) (mức độ quyền hạn không rõ ràng)

Danh sách Tư lệnh Không quân Hoàng gia Lào

Chuẩn tướng Sourith Don Sasorith (1957–1959) Chuẩn tướng Thảo Ma (1959–1966) Chuẩn tướng Sourith Don Sasorith (1966–1973) Chuẩn tướng Bouathong Phothivongsa (1973–1975)

Lịch sử

Giai đoạn hình thành

Ngành hàng không quân sự của Lào bắt nguồn từ sự thành lập hãng 'Hàng không Lào' (tiếng Pháp: Aviation Laotiènne), được người Pháp thành lập vào ngày 28 tháng 1 năm 1955 vốn chỉ là một quân chủng vận tải và trinh sát trên không quy mô nhỏ của Quân đội Quốc gia Lào (ANL). Khi người Pháp rút khỏi Đông Dương, Hàng không Lào tiếp tục phát triển dần từ nguồn viện trợ của Mỹ. Với việc bổ sung các khả năng tấn công đã chuyển đổi thành Không quân Hoàng gia Lào (RLAF).

Việc thành lập một đơn vị không quân cho quân đội Lào lần đầu tiên được lên kế hoạch vào tháng 5 năm 1954. Các loại máy bay được đề xuất bao gồm MS.500 Criquet của Pháp, DHC L-20 Beaver và các loại trực thăng cũng như vận tải cơ C-47. Ngày 6 tháng 8 năm 1954, Lào chính thức độc lập, quân đội Pháp trước khi hồi hương đã cho quân đội Lào mượn chiếc Criquet với mục đích quan sát pháo binh. Hiệp ước độc lập ban cho Pháp quyền có một sứ mệnh quân sự tại Lào. Bắt đầu từ ngày 28 tháng 1 năm 1955, sứ mệnh quân sự này chỉ phái đội ngũ cố vấn đứng đầu là một đại tá để huấn luyện cho 200 người Lào trong hoạt động không quân. Hàng không Lào được thành lập tại sân bay Wattay ở Viêng Chăn vào thời điểm này với đơn vị ban đầu là phi đội trinh sát và liên lạc số 1. Hàng không Lào chủ yếu phục vụ hai mục đích như Criquet dùng để đào tạo phi công Lào, cũng như thực hiện nghĩa vụ quân sự đang diễn ra.

Khoảng 6,500 quân trong số 30,000 quân của Quân lực Hoàng gia Lào đều bị quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pathet Lào bao vây. Bởi vì Lào là một quốc gia với mạng lưới đường bộ gần như không tồn tại, phi vụ đầu tiên của Không lực Hoàng gia Lào là hỗ trợ không yểm cho toán quân bị bao vây. Việc lái máy bay vận tải do các phi công người Pháp đảm trách trong khi người Lào vẫn đang trong quá trình huấn luyện. Một trong số những học viên đó có Thảo Ma, một cựu binh nhảy dù mà về sau sẽ lên nắm quyền chỉ huy Không quân Hoàng gia Lào.

Phi hành đoàn người Pháp lái C-47 được sử dụng cho cuộc hành quân này, kết hợp với Không đoàn cảm tử C-46 thuê lại từ hãng vận tải hàng không dân sự. Vận tải cơ C-47 "Dân sự" theo hợp đồng được dùng để thả Tiểu đoàn Nhảy dù Quân đội Hoàng gia Lào tại Xieng Khouang để chống lại sự bành trướng của Pathet Lào vào địa bàn tỉnh. Là một phần của hành động này, các phi công Lào được huấn luyện bay các phi vụ do thám bằng phi cơ Criquet. Bốn trực thăng Sikorsky H-19 của lực lượng không quân mới đã không đáp ứng đầy đủ cho các nhiệm vụ như tải thương, vì vậy thêm hai chiếc H-19 được mua lại từ Không quân Hoàng gia Thái Lan vào tháng 10 năm 1955. Các trực thăng về sau đều được viện trợ không giới hạn và là máy bay chính thức của Hàng không Thái Lan.

Vào cuối năm 1956, những vận tải cơ C-47 do chính phi hành đoàn mới huấn luyện của Lào đảm trách. Năm 1957, sẽ có 85 huấn luyện viên người Pháp cuối cùng rời khỏi Lào. Tại thời điểm khởi hành của họ, hầu hết các máy bay của Lào không thể cất cánh được do thiếu bảo dưỡng định kỳ.

Viện trợ của Mỹ

Phía Mỹ tỏ ra chậm trễ hơn khi người Pháp thất bại ở Đông Dương đã vội thiết lập Cơ quan Chương trình Đánh giá (Programs Evaluation Office - PEO) đóng vai trò như một nhiệm vụ quân sự thứ yếu vào tháng 1 năm 1954. Cơ quan này đã cung cấp 100 huấn luyện viên nhằm thay thế các cố vấn Pháp sắp rời khỏi xứ này. Đồng thời nó còn cung cấp sáu máy bay C-47, hai chiếc DHC L-20 và hai chiếc L-19 Bird Dog cùng kế hoạch xây dựng sân bay trên toàn quốc.

Một vài chiếc DHC L-20 được chuyển giao vào năm 1957, khả năng cất cánh và hạ cánh trong thời gian ngắn cũng phù hợp với các điều kiện nguyên thủy của những đường băng tại Lào. Trong đó có một vài chiếc L-20 được trang bị một khẩu súng máy cỡ nòng 0,50; việc sử dụng tự nhiên đối với máy bay vũ trang cũng như gunship chủ yếu cho các mục tiêu bắn phá trên bộ.

Tháng 7 năm 1958, một cuộc đảo chính xảy ra đã đưa Phoumi Nosavan lên cầm quyền tại Lào và đã yêu cầu phía Mỹ viện trợ thêm nữa. Năm sau, PEO có kế hoạch tăng cường không quân Lào với sáu chiếc T-28 Trojan Bắc Mỹ. Hiển nhiên là việc viện trợ hàng không có sẵn cho cuộc chiến chống Cộng sản của chính phủ Hoàng gia Lào vẫn chưa đủ, ngay cả khi được tăng cường thêm các chuyến bay hợp đồng của Air America. Sư đoàn Không quân 315 Không lực Mỹ đã gửi một biệt đội mặc đồ dân sự trong nước làm nhiệm vụ tạm thời điều khiển các loại máy bay vận tải trong vòng một tháng gồm C-119G Flying Boxcar, C-123 Provider và C-130 Hercules nhằm hỗ trợ cho phe Hoàng gia Lào. Sau khi thực hiện khoảng 72 phi vụ, họ đã rút khỏi vào ngày 27 tháng 4 năm 1959 vì áp lực chính trị quốc tế.

Hai máy bay trực thăng Alouette của Pháp được không quân Lào mua lại vào năm 1960. Đến tháng 8, toán quân nhảy dù thuộc phe Trung lập của Kông Lê đã phát động một cuộc đảo chính lật đổ Nosavan; sau khi giành được quyền lực, ông đã yêu cầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên Xô viện trợ. Ba tháng sau, Nosavan tiến hành một cuộc phản công được Mỹ hậu thuẫn từ căn cứ của ông ở Savannakhet, thực hiện cuộc tấn công thành công phe Trung lập tại Viêng Chăn. Nosavan nhận được sự hỗ trợ hậu cần trên không chỉ từ Không quân Hoàng gia Lào bị thu hẹp mà còn từ máy bay H-19 của Không quân Hoàng gia Thái Lan và bốn chiếc H-34 của Air American cũng như một chiếc Bird & Son C46. Ngoài ra để hỗ trợ hậu cần từ các máy bay, Bird & Son còn thả lính nhảy dù vào Viêng Chăn từ máy bay vận tải C-46.

Khi Kông Lê rút quân khỏi Viêng Chăn, ông đã mang theo hai chiếc C-47 và hai chiếc L-20 Beavers có thể dùng được từ Hàng không Lào và thành lập Không quân Lào trung lập. Quân đội của Nosavan còn truy kích lực lượng của Kông Lê tới tận Cánh đồng Chum.

Mỹ phản ứng với Liên Xô

Đáp lại cầu hàng không của Liên Xô, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã có lời thúc giục chính thức tới Thái Lan nhằm viện trợ sáu chiếc AT-6 Texas với khả năng tấn công tầm trung cho Không lực Hoàng gia Lào vào ngày 9 tháng 1 năm 1961. Đổi lại, người Thái được phía Mỹ bồi thường năm máy bay Cessna T-37 Tweet. Ba phi công Lào dành cho AT-6 đã có sẵn, bao gồm cả Thảo Ma. Loại máy bay tấn công tầm trung mới này đã thực hiện thành công phi vụ đầu tiên vào ngày 15 tháng 1. Một trong số các T-6 bị bắn rơi ngày 17 tháng 1 năm 1961. Không lực Hoàng gia Lào đã vội tăng cường hàng ngũ phi công với bốn phi công tình nguyện viên người Thái lấy từ Phi đoàn 63 Không quân Hoàng gia Thái Lan đã bắt đầu phi vụ bay vào giữa tháng 2. Phần lớn số T-6 còn lại đều bị tổn thất trong tháng 3 với hai cú va chạm giữa không trung, một chiếc rơi vào lưới lửa phòng không và số khác bị mất tích trong một đợt huấn luyện bay. Không lực Hoàng gia Lào tạm thời gần như bị xóa sổ.

Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1961, trong một nỗ lực yếu thế nhằm tăng cường hỏa lực cho đồng minh thân cận, 18 viên sĩ quan Không quân Mỹ đã tình nguyện tham gia vào chiến dịch Pond Mill. Những phi công này được ủy quyền vào Không lực Hoàng gia Lào để lái máy bay ném bom Douglas A-26 Invader tại Lào. Bên cạnh đó, Họ còn tăng cường thêm bốn phi công người Mỹ cho tổ bay này. Tuy nhiên, những cân nhắc chính trị trước sự khuấy động của vụ xâm nhập Vịnh Con Lợn đã ngăn việc sử dụng Invader.

Mỹ bắt đầu tiến hành cầu hàng không riêng của mình vào năm 1961, cũng như kết hợp của những nỗ lực trinh sát không ảnh. Khả năng vận tải của Không lực Hoàng gia Lào được tăng cường lên đến 13 máy bay Douglas C47 và được dùng trong chuyến không vận quan trọng đầu tiên của Không lực Hoàng gia Lào khi họ vận chuyển ba tiểu đoàn của quân đội Hoàng gia Lào tới Sam Neua. Người Mỹ còn cung cấp thêm mười chiếc AT-6 chuyên tiến hành các phi vụ tấn công mặt đất cho Không lực Hoàng gia Lào thông qua sự trung gian của Không quân Hoàng gia Thái Lan. Trong một phi vụ xuất kích bốn chiếc AT-6 đã bay từ sân bay Luang Prabang trong suốt tháng 4 năm 1961, Trung úy Khampanh của Không lực Hoàng gia Lào đã bắn rơi một chiếc máy bay Ilyushin Il-4 thuộc hạm đội cầu hàng không Liên Xô bằng cách sử dụng tên lửa không điều khiển. Đây là chiến thắng không đối không duy nhất của Không quân Hoàng gia Lào. Tuy nhiên, sự thiếu sót của những chiếc AT-6 cũ kỹ già nua đã trở nên rõ ràng với các nhà viện trợ người Mỹ; T-28 Trojan được đồn rằng sẽ là tương lai của Không lực Hoàng gia Lào. Những chiếc T-28 mà Không lực Việt Nam Cộng hòa hứa sẽ cung cấp cho Không lực Hoàng gia Lào đã không được chuyển giao vì ngưng chiến.

Kết quả cuối cùng của những trận đánh trên Cánh đồng Chum là một chỉ thị từ Tổng thống Mỹ John F. Kennedy vào tháng 5 năm 1961 cho biết Đại sứ Mỹ tại Lào sẽ phục vụ như là chỉ huy quân sự thực tế tại Lào. Lời phê chuẩn của ông đã hợp thức hóa tất cả các cuộc không kích ở nước này. Văn phòng Tùy viên Không quân sẽ đóng vai trò là nhân viên của ông Đại sứ phục vụ cho việc thực thi sức mạnh không quân tại Lào.

Ngày 10 tháng 5 năm 1962, hiệp ước đình chiến được ký kết đã giới hạn hoạt động của Không lực Hoàng gia Lào với những chiếc T-6 không còn hoạt động nữa, mặc dù học viên Hàng không Lào được chuyển tiếp đến Lopburi, Thái Lan học khóa huấn luyện T-28 vào tháng 6 năm 1962. Tuy nhiên, trong thời gian ngừng bắn, Vàng Pao đã sử dụng sự hỗ trợ của CIA cho quân đội dân tộc miền núi người H'Mông của ông để bắt đầu đào xới dải đất đường băng ngắn được dùng để yểm trợ hậu cần cho quân của mình bằng máy bay trực thăng và máy bay đường ngắn.

Thỏa thuận quốc tế về tính trung lập của Lào đã được ký kết vào ngày 23 tháng 7 năm 1962 và có hiệu lực vào tháng 10. Ngày 6 tháng 10 năm 1962, người cuối cùng của Đoàn cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ rời khỏi Lào tuân theo Hiệp định. Ngày hôm sau, 40 cán bộ cộng sản Việt Nam trên tổng số 7000 người tại Lào được hồi hương, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố họ hoan nghênh Hiệp định này. Lời nói cửa miệng về việc quan sát Hiệp định đã định hình toàn bộ nỗ lực của Mỹ để tổ chức và có hiệu lực tới Không lực Hoàng gia Lào, với tất cả các kỹ thuật viên và cố vấn Mỹ núp dưới vỏ bọc ngoại giao được công nhận như là tùy viên quân sự.

Giai đoạn phát triển

Một chiếc [[North American T-28 Trojan|T-28D Không lực Hoàng gia Lào tại Long Tieng]] Cuộc chiến lại nổ ra một lần nữa tại Lào trong giai đoạn này, Không lực Hoàng gia Lào có năm phi công T-28 được huấn luyện tại căn cứ Không quân Moody, Georgia để bay những chiếc T-28 vừa được chuyển giao vào tháng bảy và tháng 8 năm 1963 tới sân bay Wattay bên ngoài Viêng Chăn. Mỹ còn tiếp tế thêm bom và tên lửa cho Không lực Hoàng gia Lào mặc dù tạm thời giữ lại các kíp nổ để dễ bề kiểm soát.

Một trong những chiếc T-28 mới toanh sớm bị rơi ở Viêng Chăn. Một chiếc T-28 khác đã biến mất khỏi kho bãi khi Trung úy Chert Saibory, người đã đào thoát từ Không quân Hoàng gia Thái Lan sang Không lực Hoàng gia Lào và nay lại đào thoát một lần nữa vào tháng 9 năm 1963. Ông lái chiếc T-28 bay vào không phận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bị giam giữ ngay lập tức riêng chiếc T-28 trở thành máy bay chiến đấu đầu tiên của Không quân Nhân dân Việt Nam. Cũng trong tháng 3 năm 1964, Đại sứ Unger đã vận động Bộ Ngoại giao Mỹ mở rộng vai trò cho Không lực Hoàng gia Lào. Nhờ vậy mà Không lực Hoàng gia Lào đã tiến hành các vụ không kích T-28 nhắm vào quân cộng sản trên Cánh đồng Chum vào ngày 17 tháng 5 năm 1964. Unger đã chuyển giao kho vũ khí của Đại sứ quán cho Không lực Hoàng gia Lào ngay ngày hôm đó. Chiến dịch Waterpump còn gửi thêm bốn chiếc T-28 cho Không lực Hoàng gia Lào. Hai ngày sau, mười chiếc T-28 dư thừa được chuyển từ Việt Nam Cộng hòa; bốn chiếc được Waterpump giữ lại dùng để tiếp tục hoạt động đào tạo huấn luyện trong khi sáu chiếc còn lại được chuyển cho Không lực Hoàng gia Lào. Nhằm khắc phục tình trạng thiếu phi công cho đến khi Waterpump hoàn tất tốt nghiệp các phi công Lào, cơ quan PEO của Mỹ đã bí mật tuyển dụng năm phi công tình nguyện viên từ Air America, gán cho họ cái tên "Đội A". Họ đã tiến hành vụ không kích vào ngày 25 Tháng 5 năm 1964, hai chiếc T-28 bị thiệt hại do hỏa lực phòng không trong khi để lạc mất mục tiêu đối phương. Bởi vì có khả năng để lại hậu quả chính trị nếu một phi công Mỹ bị rơi vào tay kẻ thù, PEO mang theo những phi công Thái Lan từ Phi đoàn 223 Không quân Hoàng gia Thái Lan trên chuyến công vụ dài sáu tháng, trong một chiến dịch tuyệt mật được gọi là Project Firefly (Kế hoạch Đom đóm). Những lính đánh thuê được tuyển mộ này được biết đến với tên gọi "Đội B" và bắt đầu các vụ không kích vào ngày 1 tháng 6 năm 1964. Để hoàn thành các thứ bậc của nhóm, các phi công Lào được chỉ định là "Đội C". Các đội A và B đặt dưới sự kiểm soát của Đại sứ Unger.

Tháng 6 năm 1964, khi ngã ba đường chiến lược của các Xa lộ 7 và 13 bị quân cộng sản đe dọa, Không lực Hoàng gia Lào có 20 chiếc T-28 và 13 phi công Lào sẵn sàng tham chiến. Thêm mười học viên phi công Lào đã gần kết thúc khóa đào tạo và sẵn sàng tham gia các phi vụ vào ngày 9 tháng 8 năm 1964. Mười phi công Thái Lan và sáu phi công Mỹ cũng sẵn sàng cho nhiệm vụ ngay lập tức với đồng minh Không lực Hoàng gia Lào. Thêm bốn chiếc T-28 có sẵn tại Udorn. Thêm mười lăm chiếc T-28 sẵn sàng ứng chiến chuyển từ Không lực Việt Nam Cộng hòa vừa được tái trang bị với máy bay A-1 Skyraider.

Cũng trong tháng 6 năm 1964, một phi đội T-28 của Đội A đã oanh tạc tổng hành dinh phe trung lập của Kông Lê ở Khang Khay trong một nỗ lực thành công để buộc ông phải chuyển đổi liên minh từ Pathet Lào sang hàng ngũ phe Hoàng gia. Kế đến, Đội A còn được phép dùng những chiếc T-28 của Không lực Hoàng gia Lào để ném bom Trung tâm Văn hóa Trung Quốc nổi tiếng là trại huấn luyện đội ngũ nhân viên của Trung Quốc cho cho quân cộng sản Lào trên Cánh đồng Chum. Các mối đe dọa gây ra bởi lưới lửa phòng không Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gia tăng đều đặn ở phía bắc Lào. Điều này dẫn đến sự phân công các phi công Thái Lan của Đội B có nhiều kinh nghiệm hơn cho các phi vụ ở miền Bắc nước Lào, riêng những phi công Lào ít kinh nghiệm hơn thì tiến hành những đợt không kích vào miền nam nước Lào. Không lực Hoàng gia Lào giờ đây hoạt động trải dài từ Pakse và Savannakhet cũng như Luang Prabang và Viêng Chăn. Thế nhưng tổn thất ngày càng gia tăng, một chiếc T-28 Trojan đã bị súng phòng không 37mm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn hạ vào ngày 14 tháng 8. Ngày 18 tháng 8, Trung tá Viripong, Tư lệnh Phi đoàn 223 Không quân Hoàng gia Thái Lan bị bắn rơi trong khi đang lái chiếc T-28 tiến hành một phi vụ trái phép trên Cánh đồng Chum, một số T-28 khác còn bị mất tích ở miền Bắc Việt Nam khi đang trinh sát.

Vào tháng 1 năm 1965, một vụ nổ kho quân nhu tại căn cứ Không quân Wattay làm thiệt hại 8 tám chiếc T-28 và một chiếc C-47. Những tổn thất giảm đáng kể hoạt động của các phi công đội B của Thái Lan cho tới tháng 5. Trong tháng đó, Không lực Hoàng gia Lào đã giành được chiến thắng đầu tiên với hai xe tăng cùng với năm xe tải bị phá hủy.

Mùa hè năm 1965 đánh dấu sự khởi đầu của sự chia rẽ nội bộ trong hàng ngũ Không lực Hoàng gia Lào. Vị tư lệnh năng nổ có uy tín của Không quân Hoàng gia Lào là Tướng Thảo Ma đã gợi lên sự ghen tị từ các tướng khác. Cuối cùng đã xảy ra một vụ ám sát cố ý chống lại ông vào ngày 3 tháng 7 năm 1965.

Vào giữa năm 1965, các chuyên gia hàng không "dân sự" Mỹ bí mật cung cấp cho chính phủ Hoàng gia Lào được tổ chức thành Trung tâm hoạt động hàng không (Air Operation Center - AOC). Trung tâm hoạt động hàng không được thành lập tại 5 quân khu của Lào với nhân viên được tuyển mộ thông qua chương trình Palace Dog của Không quân Mỹ.

Đến mùa xuân năm 1966, Không lực Hoàng gia Lào đã phát triển lên đến 40 chiếc T-28. Các phi công Đội B người Thái tiếp tục tham gia chủ yếu là các hoạt động của Không lực Hoàng gia Lào. với 23 người đến Lào vào đầu năm 1966. Ngoài ra, nhằm gia tăng số lượng phi công T-28, CIA đã bắt đầu triển khai chương trình đào tạo hàng chục ứng cử viên phi công người dân tộc thiểu số Hmong ở Thái Lan. Bảy người trong số họ sẽ tốt nghiệp khóa phi công T-28; số khác trở thành phi công vận tải và liên lạc; một số thì trở thành phi công trực thăng. Sự thất bại hoàn toàn của chương trình này với ý định trinh sát trên không bằng loại máy bay Raven FAC.

Ngày 9 tháng 11 năm 1966, Chiến dịch Waterpump đã làm lễ tốt nghiệp cho 42 phi công T-28 mới của Lào. Tuy nhiên do đào ngũ và thương vong, chỉ có 24 người là còn lưu trong hồ sơ của Không lực Hoàng gia Lào. Trong một nỗ lực để soạn thảo kế hoạch nhu cầu trong tương lai của Không lực Hoàng gia Lào, Đại sứ William H. Sullivan dự đoán rằng có thể 7 phi công Lào đã đào ngũ sang Thái Lan sẽ được hồi hương, và thêm sáu học viên phi công Lào đã trở về để tốt nghiệp khóa đào tạo. Sullivan đã đoán trước nhu cầu nhân sự mà Không lực Hoàng gia Lào cần khoảng từ 55 tới 60 phi công Lào và 44 tới 48 máy bay T-28. Ông lưu ý tầm quan trọng của việc gia tăng số lượng phi công T-28 với một tiếng nói chung cùng lục quân Lào mà Không quân Hoàng gia Lào tiến hành việc không yểm tầm ngắn. Cho đến khi đủ số lượng phi công Lào được đào tạo, phi công Thái Lan có tiếng nói giống như Lào, sẽ lấp đầy vai trò không yểm tầm ngắn, còn lại giao cho máy bay của không quân Mỹ tự do không kích các mục tiêu đánh phá. Đến cuối năm 1966, hơn một nửa phi vụ xuất kích trong năm đều do phi công Đội B đảm trách.

Thời kỳ Tướng Sourith chỉ huy

Máy bay huấn luyện T-28 Trojan Bắc Mỹ của Không quân Hoàng gia Lào cũ. Vào đầu năm 1967, toán đặc công Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tấn công sân bay Luang Prabang tới hai lần, phá hủy 17 chiếc T-28 của Không lực Hoàng gia Lào. Từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 5 năm 1967, Không quân Hoàng gia Lào cùng với Không quân Mỹ tham gia vào một loạt các cuộc không kích thứ hai trực tiếp đánh phá Đường 110 thuộc hệ thống đường mòn Sihanouk ở Nam Lào. Không lực Hoàng gia Lào đóng góp 41 phi vụ vào nỗ lực này.

Không giống như Ma, Tướng Sourith khuyến khích việc buôn lậu vàng và thuốc phiện bằng cách sử dụng các máy bay vận tải thuộc Không lực Hoàng gia Lào. Tuy nhiên, bắt đầu từ trưa ngày 30 Tháng 7 năm 1967, Sourith đã ra lệnh cho phi đội T-28 của Không lực Hoàng gia Lào tiến hành không kích trong hai ngày vào đoàn buôn lậu gồm 300 con la chở 16 tấn thuốc phiện từ Miến Điện vào miền tây Lào tại Ban Khwan.

Khoảng thời gian cuối năm 1967, bảy chiếc T-28 của Không lực Hoàng gia Lào đã thực hiện chuyến bay tiếp tế cho quân đội Hoàng gia tham gia trong trận Nam Bắc; không may, thiếu sự phối hợp giữa không quân và lục quân làm cho cuộc không kích không đạt hiệu quả. Công tác hỗ trợ hậu cần cho binh lính bằng trực thăng của Không lực Hoàng gia Lào cũng đã chứng minh không đầy đủ. Trước sự thất bại thảm hại tại Nam Bắc vào đầu năm 1968, quân đội Hoàng gia Lào đã trở nên yếu kém, tăng gánh nặng chiến đấu trên vai Không quân Hoàng gia Lào. Không quân được tăng cường thêm từ 45 đến 50 T-28, với thêm 25 đến 30 chiếc đóng vai trò dự bị ở Thái Lan. Không lực Hoàng gia Lào còn bổ sung thêm 9 máy bay trực thăng UH-34 và 16 chiếc C-47.

Tháng 2 năm 1968, Không lực Hoàng gia Lào phải gánh chịu một tổn thất nghiêm trọng, khi một chuyến bay gồm ba chiếc T-28 đang làm nhiệm vụ không yểm trong thời tiết xấu đã lao vào một sườn núi ở Quân khu 2. Không một ai sống sót sau vụ tai nạn thảm khốc, Một sự kiện gây chấn động dư luận khác xảy ra vào ngày 21 tháng 3 năm 1968, một phi hành đoàn C-47 đã bị bắt tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Việt Nam vì buôn lậu vàng và thuốc phiện. Ngay sau đó, Đại sứ Sullivan đã từ chối cung cấp thêm năm máy bay C-47 cho Không lực Hoàng gia Lào, với lý do họ sẽ dùng vào việc buôn lậu.

Đến năm 1968, vì để mất quá nhiều máy bay T-28, tổn thất phi công và hậu quả khiến tinh thần quân chủng sa sút. Chiến thuật không quân của Không lực Hoàng gia Lào đã giảm bớt tỉ lệ xuất kích mức giá thấp nhất trong vòng bốn năm. Các chuyên gia hàng không dân sự được bổ sung từ Không quân Mỹ đã tăng lên đến mười người mỗi đợt cho Trung tâm hành quân không quân, đảm đương tất cả các chức năng hỗ trợ T-28 nhằm đạt được hiệu quả ngắn hạn. Kết quả là, Số vụ xuất kích của Không lực Hoàng gia Lào cho tháng 12 đã tăng gấp ba lần hơn tháng Giêng, tổng cộng khoảng 1522 phi vụ. Đến cuối năm, những máy bay T-28 đã thực hiện khoảng 10.000 phi vụ chiến đấu. Ngược lại, các máy bay vận tải C-47 của Không quân Hoàng gia Lào vẫn còn trơ trẽn lạm dụng việc buôn lậu vàng và thuốc phiện và có đủ tư cách hoạt động như các máy bay dân sự.

Sang năm 1969, các cố vấn Không lực Hoàng gia Lào đã bắt đầu một vài chương trình nhằm nâng cao tinh thần của các phi công T-28, mà trước mắt là thực hiện việc chi trả tiền thưởng cao cho mỗi đợt xuất kích. Các khóa huấn luyện kỹ năng trốn thoát và lẩn tránh còn được mở tại Hua Hin, Thái Lan; bên cạnh việc gia tăng gấp đôi thời gian nghỉ ngơi và hồi phục bên bờ biển. Tuy không còn đường rút nhưng chiến dịch vẫn tiếp tục. Ngày 27 tháng 6 năm 1969, căn cứ hiện đại của Không lực Hoàng gia Lào tại Moung Soui bị đặc công và bộ đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tràn ngập. Ngày 11 tháng 7 năm 1969, một trong những phi công Hmong nổi tiếng nhất là Đại úy Ly Lu đã bị bắn hạ và thiệt mạng sau khi tiến hành hơn 1.000 phi vụ chiến đấu trong vòng ít nhất 18 tháng. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1969, Lào lần đầu tiên triển khai việc huấn luyện hai máy bay điều không tiền phương. Vào cuối năm 1969, đội quân lính đánh thuê người Hmong trên bộ được sự yểm trợ bởi các cuộc không kích của Không lực Hoàng gia Lào và Mỹ đã tái chiếm phần lớn Cánh đồng Chum. Ba chiếc gunship AC-47 Spooky đầu tiên được Không lực Hoàng gia Lào tiếp nhận từ Không lực Việt Nam Cộng hòa và Mỹ, đã thực hiện phi vụ bay đầu tiên vào ngày 5 tháng 9. Những vấn đề về phi hành đoàn có hiệu quả dự kiến sẽ lái C-47 theo ngày cũng như AC-47 vào ban đêm; pháo thủ sẽ bắn đến đỏ cả nòng súng; đạn dược được bắn chỉ mang giá trị bán lại bằng đồng; Vàng Pao ban đầu miễn cưỡng sử dụng chúng vì sợ gây tổn thương đến đồng minh thân cận. Nó còn phụ thuộc vào kinh nghiệm khá hữu ích của các phi công; ví dụ như Đại úy Khamphan (nhờ những chiến thắng không đối không) đã thực hiện được trên 7.000 giờ bay. Tuy nhiên, ba chiếc Spookies đã sớm chứng tỏ giá trị của chúng và bắt đầu trung bình khoảng 50 phi vụ xuất kích ban đêm mỗi tháng.

Đến tháng 1 năm 1970, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã lợi dụng một hiệp ước có trước đây để xây dựng một đường xa lộ từ phía nam tỉnh Vân Nam xuyên qua phía tây Lào hướng về biên giới Thái/Lào. Người Trung Quốc đã cử một đoàn xe tải về phía nam trên con đường đó. Khi đoàn xe tiếp cận được Pak Beng thì bị hai phi cơ T-28 Đội B Không lực Hoàng gia Lào không kích làm 15 chiếc bị phá hủy. Nhiều vụ không kích xảy ra trên con đường đó đều chấm dứt bởi 400 khẩu súng phòng không với cỡ nòng khác nhau dọc theo chiều dài súng được phía Trung Quốc thiết lập nhằm bảo vệ tuyến đường vận tải xuyên biên giới này.

Vào tháng 3 năm 1970, bộ đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một lần nữa lại tấn công Cánh đồng Chum. Vài ngày sau đó, họ chiếm được một căn cứ không quân hiện đại của Không lực Hoàng gia Lào tại Sam Thong vào ngày 18 tháng 3. Trong trận giao tranh ở Cánh đồng Chum, Không lực Hoàng gia Lào đã để mất ba chiếc T-28D, cộng với các loại máy bay hạng nhẹ gồm hai chiếc O-1 và một chiếc U-17. Nhu cầu về khí tài của không lực trở nên tuyệt vọng đến nỗi phải sử dụng C-7 Caribou của Air America làm máy bay ném bom tạm thời, thả hàng chục thùng chứa bom napalm nhằm ngăn chặn bước tiến công của bộ đội Việt Nam. Lực lượng cộng sản tiến quân sát gần căn cứ Không quân Hoàng gia Lào tại Moung Soui và Long Tieng khiến thời gian xuất kích suy giảm đủ để một phi công T-28 người Hmong tiến hành 31 phi vụ trong một ngày duy nhất.

Những tác động của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh năm 1970 đã lan tận sang Lào. Một chương trình huấn luyện mở rộng dành cho phi công T-28 của Lào được bắt đầu. Trung tâm hành quân phối hợp đặt dưới quyền Đại tá Bouathong Phontivongsa đã kết hợp các hoạt động hàng không với Bộ Tổng tham mưu Lục quân Hoàng gia Lào. Tỷ lệ phi vụ xuất kích của phi đội T-28 Không quân Hoàng gia Lào được gia tăng với quy mô lớn hơn và đặt dưới quyền Cơ quan Điều không tiền phương. Tuy nhiên, Không lực Hoàng gia Lào phải đối mặt với một số vấn đề lớn. Một trong số đó là tỷ lệ tử vong của phi công ở mức nghiêm trọng, với những phi công T-28 còn sống sót chỉ tính trung bình 20 tháng một phi vụ chiến đấu. Ngoài ra, vào tháng 8 năm 1970, cơ quan chức năng đã phát hiện ra một điểm buôn lậu cất giữ tới 70 tấn súng trường M-16 và các loại vũ khí khác được mua lại từ Trung Hoa Dân Quốc trong một vụ trao đổi thuốc phiện dài hai tháng tại Houayxay Ban. Một điểm yếu khác sẽ không bao giờ thực sự được giải quyết là sự thiếu hụt về nhân viên có đủ điều kiện năng lực bảo trì và hậu cần của Lào. Một nỗ lực để giải quyết sự thiếu hụt đã được thực hiện khi người Mỹ quyết định trao lại quyền kiểm soát tất cả các phi cơ T-28 cho Không lực Hoàng gia Lào, bên cạnh việc triển khai một chương trình đào tạo mở rộng. Tuy nhiên, giữa quản lý cộng với kỹ năng chỉ huy và kiểm soát bộc lộ sự yếu kém rõ rệt trong bộ máy của Không lực Hoàng gia Lào. Ngoài ra, các phi vụ chiến đấu của T-28 đã đạt mức 30.000 chuyến xuất kích vào cuối năm nay. Một nghiên cứu của Tập đoàn Rand Corporation đã mô tả thành tích nổi bật của Không lực Hoàng gia Lào và lưu ý rằng một số phi công Không quân Hoàng gia Lào đã thực hiện hơn 1000 phi vụ chiến đấu cho đến giờ.

Tháng 5 năm 1971, căn cứ Không lực Hoàng gia Lào tại Pakse bị quân cộng sản đe dọa đánh chiếm, do vậy phi đội T-28 được di chuyển trở lại vào Thái Lan tới căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Ubon. Tuy nhiên, vào ngày 11 Tháng 6, tám chiếc T-28 sẵn có đã tiến hành 88 phi vụ phá hoại chống lại bộ đội Việt Nam với mỗi phi công phải phụ trách 14 phi vụ. Đến tháng 7 năm 1971, phi đội AC-47 Không lực Hoàng gia Lào được phép đưa vào tham chiến với 10 máy bay yểm trợ, Tuy nhiên, phi đội sớm phải chịu một tổn thất nghiêm trọng khi máy bay thị sát của chỉ huy trưởng là Đại tá Thảo Ly bị bắn rơi và bốc cháy dữ dội làm ông thiệt mạng ngay tức khắc.

Vào cuối năm 1972, Tướng Vàng Pao đã phát động cuộc tấn công cuối cùng của ông, cố gắng một lần nữa tái chiếm bằng được Cánh đồng Chum. Không quân chiến thuật Không lực Hoàng gia Lào giờ đây đã vượt ra ngoài nhiệm vụ không yểm tầm gần để đóng vai trò là pháo đài bay; ví dụ như nó được giao nhiệm vụ tiến hành lên đến 80 phi vụ hàng ngày trong sự điều chỉnh chuyển sang Biệt đội Delta của Vàng Pao, bắt đầu từ ngày 24 tháng 8. Những thiếu sót của phương pháp này được thấy rõ vào ngày 9 tháng 9, khi một chiếc T-28 đã thả bom nhầm vào quân đội đồng minh làm 80 người lính bị thương và phá vỡ bước tiến công quân đối phương của họ. Đoàn trực thăng UH-34 của Không lực Hoàng gia Lào và Air America đã gia nhập vào phi đội CH-53 của Không quân Mỹ và tám chiếc C-47 của Air America trong một đợt tấn công của quân đội Vàng Pao bằng không vận. Sau một tháng, cuộc tấn công bị trì hoãn trong một mớ hỗn độn từ việc phối hợp không ăn ý của một trong ba phi đội Không lực Hoàng gia Lào. Ngoài ra, vào cuối năm 1972, Việc người Mỹ rút quân và giảm bớt sự hiện diện trong chiến tranh Việt Nam đã bắt đầu tác động đến Không lực Hoàng gia Lào.

Tháng 4 năm 1973, hiệp ước đình chiến bị phá vỡ buộc Không lực Hoàng gia Lào tiếp tục tham chiến.

Ngày 20 tháng 8 năm 1973, Tướng Thao Ma dẫn đầu một đoàn quân hộ tống gồm 60 xe tải trở lại Lào và tái chiếm căn cứ không quân Wattay. Ông và sáu phi công khác của Lào đã phát động lại điệp khúc đảo chính trên không bằng cách sử dụng máy bay T-28 thực hiện các cuộc đánh bom tổng hành dinh của chính phủ. Tuy nhiên, quân đội Hoàng gia Lào đã phản công chiếm lại Wattay và Ma bị bắn rơi trong khi hạ cánh. Mặc dù sống sót sau cuộc hạ cánh vội vã nhưng ông vẫn bị xử tử ngay lập tức.

Đến giữa năm 1974, Air America chính thức kết thúc hoạt động của họ tại Lào. Tuyến tiếp tế từ Mỹ gần như đóng cửa. Thiếu thốn nhiên liệu, phụ tùng và các loại đạn dược, Không quân Hoàng gia Lào nhanh chóng xuống dốc. Trung tâm hành quân phối hợp bị đóng cửa. Chương trình huấn luyện nhân sự ngoài nước chấm dứt. Kể từ đây, các phi công Không lực Hoàng gia Lào chỉ bay được hai giờ mỗi tháng.

Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Không quân Hoàng gia Lào xuất kích thực hiện phi vụ chiến đấu cuối cùng. Theo lệnh của Vàng Pao, chín chiếc máy bay T-28 đã oanh tạc một đoàn xe tải của Pathet Lào đang trên đường di chuyển về hướng nam tiến vào Viêng Chăn, gây tổn thất nghiêm trọng. Sang tháng sau, phe Cộng sản kích động dân chúng tiến hành hàng loạt các cuộc biểu tình chống Chính phủ Hoàng gia Lào, nhiều viên phi công Không lực Hoàng gia Lào đã đào thoát sang Thái Lan. Mười sáu chiếc T-28 mà họ lái được bàn giao lại cho Không quân Philippines. Những phi công Không lực Hoàng gia Lào bị giam giữ đã được phóng thích để bay cùng với những người chủ mới của họ. Từ năm 1975-1977, đã xảy ra chín cuộc đào tẩu của các viên phi công chế độ cũ trốn sang Thái Lan. Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào vì vậy đã để mất 29 chiếc T-28, 4 trực thăng UH-34, một C-47, một T-41 và một chiếc Antonov AN-2 còn thực hiện chuyến bay về phía nam mà mãi sau này mới được trả lại.

Sự kiện trọng yếu

Ngày 28 tháng 1 năm 1955: Thành lập Hàng không Lào Năm 1960: Pathet Lào bắt đầu vận hành máy bay. Tháng 8 năm 1960: Hàng không Lào đổi tên thành Không quân Hoàng gia Lào (RLAF) Mùa xuân năm 1963: Lực lượng không quân của viên tướng bất đồng chính kiến Kông Lê hợp nhất vào Không lực Hoàng gia Lào *Đầu năm 1976: Không quân Hoàng gia Lào đổi tên thành Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào (LPLAAF)

Quân phục và phù hiệu

Quân hàm

*Sip/Airman basic* – Binh nhì (không phù hiệu) Sip Trii/Corporal – Hạ sĩ (một lon trắng hướng lên) Sip Thó/Sergeant – Hạ sĩ nhất (hai lon trắng hướng lên) Sip Êek/Staff Sergeant – Trung sĩ (ba lon trắng hướng lên) Cãã Trii/Sergeant 1st class – Trung sĩ nhất (một lon vàng viền màu xanh hoàng gia hướng xuống) Cãã Thó/Master Sergeant – Thượng sĩ (hai lon vàng viền màu xanh hoàng gia hướng xuống) Cãã Êek/Sergeant Major – Thượng sĩ nhất (ba lon vàng viền màu xanh hoàng gia hướng xuống) Wáa Trii Hua Trii/Warrant Officer – Chuẩn úy (một thanh vàng nằm ngang) Roitrïäkäd/2nd Lieutenant – Thiếu úy (một ngôi sao vàng năm cánh) Roithöäkäd/1st Lieutenant – Trung úy (hai ngôi sao vàng năm cánh) Roiëkäkäd/Captain – Đại úy (ba ngôi sao vàng năm cánh) Phantrïäkäd/Major – Thiếu tá (một ngôi sao năm cánh chèn vào một đĩa vàng) Phanthöäkäd/Lieutenant-Colonel– Trung tá (hai ngôi sao năm cánh, một chèn vào một đĩa vàng) Phanëkäkäd/Colonel** – Đại tá (ba ngôi sao năm cánh, một chèn vào một đĩa vàng) *Phonchatääkäd/Brigadier-General – Chuẩn tướng (hai ngôi sao bạc năm cánh)

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Không quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Aviation Royale Laotienne_ – AVRL; tiếng Anh: _Royal Lao Air Force_), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của
**Thủy quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Marine Royale Laotienne_ – MRL) là quân chủng thủy quân thuộc Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào (FAR) và là lực lượng thủy quân chính thức của
**Lục quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Armée Royale du Lào_ - ARL hoặc RLA theo kiểu Mỹ), là quân chủng lục quân thuộc Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào và là lực lượng
**Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào** hoặc **Quân lực Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Forces Armées du Royaume_ viết tắt FAR), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của Vương quốc Lào,
**Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào** (LPLAAF) là lực lượng không quân của Lào. ## Lịch sử Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào được thành lập vào năm 1976 tiền thân
**Sân bay Hải quân Hoàng gia Thái Lan U-Tapao** là một sân bay của không lực hải quân Thái Lan và là căn cứ của Không đoàn 1 Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Nó
Hiệu kỳ Hoàng gia Lào (1952 - 1975). **Chính phủ Hoàng gia Lào** là chính phủ cầm quyền Vương quốc Lào từ năm 1947 cho đến khi phe Cộng sản giành được chính quyền vào
**Chính phủ Hoàng gia Lào lưu vong** () là một chính phủ lưu vong của Lào trái ngược với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Nó có ý định tìm cách thiết lập một
**Cảnh sát Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Police Royale Laotiènne_ – PRL), là lực lượng cảnh sát quốc gia chính thức của Vương quốc Lào từ năm 1949-1975, hoạt động phối hợp chặt chẽ với
Tên người Thái Lan có địa vị chính trị thường bao gồm phần danh xưng và tước hiệu. Các địa vị khác nhau sẽ có danh xưng và tước hiệu khác nhau. ## Quốc vương
**Thủy quân Nhân dân Lào** là lực lượng thủy quân của Lào. Vào năm 1975, lực lượng thủy quân Lào được thành lập dựa trên những gì còn sót lại của Thủy quân Hoàng gia
**Không quân Đức Quốc Xã** (tiếng Đức: **_Luftwaffe_,** ) là một quân chủng của lực lượng vũ trang Đức Quốc xã (_Wehrmacht_) trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau Chiến tranh Thế
**Nội chiến Lào** là cuộc chiến tranh thường được tính bắt đầu từ tháng 5 năm 1959 và kết thúc vào tháng 12 năm 1975, theo các tài liệu truyền thống tại phương Tây, tại
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Vương quốc Lào** (tiếng Lào: _ພຣະຣາຊອານາຈັກລາວ_ / _Phra Ratxa A-na-chak Lao_, tiếng Pháp: _Royaume du Laos_) là một chính thể quốc gia tồn tại từ năm 1947 cho đến khi giải thể để thay thế
**Lục quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Khmère_ - ANK; tiếng Anh: _Khmer National Army_ - KNA) là quân chủng lục quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Vương tôn William xứ Gloucester** (**William Henry Andrew Frederick**; 18 tháng 12 năm 1941 – 28 tháng 8 năm 1972) là người con lớn nhất của Vương tử Henry, Công tước xứ Gloucester và Alice,
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**Sir Robert Grainger Ker Thompson** (1916–1992) là một sĩ quan quân đội Anh và là chuyên gia chống nổi dậy và "được cả hai bờ Đại Tây Dương coi là một trong những chuyên gia
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Quân chủng Phòng không Không quân Quân đội Nhân dân Triều Tiên** (Chosŏn'gŭl: 조선인민군 항공 및 반항공군; Hanja: 朝鮮人民軍 航空 및 反航空軍; _Chosŏn inmin'gun hangkong mit banhangkonggun_) là nhánh quân chủng phòng không-không quân của
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**_Sòng bạc hoàng gia_** (tựa gốc ) là bộ phim đề tài gián điệp công chiếu năm 2006 và là phần thứ 21 trong loạt phim điện ảnh _James Bond_ của Eon Productions, cũng như
phải|nhỏ|300x300px|Cơ chế tác động của các loại thuốc điều trị lao. **Quản lý bệnh lao **đề cập đến những điều trị y học của các nhiễm trùng lao (Tuberculosis - TB). Tiêu chuẩn "ngắn hạn"
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Không lực Việt Nam Cộng hòa** (, **RVNAF**) là lực lượng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên
**HMS _Hawkins_ (D86)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp _Hawkins_. Cùng với việc cải biến một trong các tàu chị em với nó, chiếc HMS
**Không chiến tại Kuban** là chiến dịch hoạt động quân sự trên không lớn nhất trong chuỗi chiến dịch ở Kavkaz (1943) nhằm tranh quyền khống chế không phận và là một trong các cuộc
**Vụ oanh tạc Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt** xảy ra vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, chỉ hai ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ. Vụ ném bom do Phi đội Quyết
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1948: ## Sự kiện * Không quân Hoa Kỳ có 20.800 máy bay, khoảng một nửa trong số đó là
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1947: ## Các sự kiện ### Tháng 1 *26 tháng 1 - một chiếc Douglas Dakota của hãng hàng không
Bài viết này trình bày chi tiết về **lịch sử của Lào kể từ sau năm 1945**. ## Thế chiến 2 Xứ ủy Ai Lao, phân bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Đảng Nhân dân Cách mạng Lào** là đảng cầm quyền ở Lào theo Hiến pháp. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chính thức thành lập vào ngày 22 tháng 3 năm 1955. Đảng đã lãnh
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**Thao Ma Manosith** (1931–1973) là chính khách và Chuẩn tướng Quân lực Hoàng gia Lào trong Nội chiến Lào và Chiến tranh Việt Nam (còn gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai). Thao
**Quần đảo Falkland** ( ) hay **Quần đảo Malvinas** ( ) là một quần đảo nằm ở Nam Đại Tây Dương. Các đảo chính của quần đảo này nằm cách 500 km về phía đông của
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
Tinh Đầu Thông Đỏ Hoàng Gia Hàn Quốc Hộp 120 Viên - Royal Korean Red Pine Tặng Ngay Hộp Thiên Sâm Mật Ong 300g Trị giá lên tới 2.100.000 vnđTinh dầu thông đỏ hoàng gia
Tinh Đầu Thông Đỏ Hoàng Gia Hàn Quốc Hộp 120 Viên - Royal Korean Red Pine Tặng Ngay Hộp Thiên Sâm Mật Ong 300g Trị giá lên tới 2.100.000 vnđTinh dầu thông đỏ hoàng gia
**Quần đảo Pitcairn** (; tiếng Pitkern: **'), tên gọi chính thức: **Pitcairn, Henderson, Ducie và Oeno''', là một nhóm gồm bốn hòn đảo núi lửa ở phía Nam Thái Bình Dương tạo thành Lãnh thổ
**Hải chiến Hoàng Hải** (黃海海戰, _Hoàng Hải hải chiến_), cũng được gọi là _Trận sông Áp Lục_ hay _Trận Áp Lục_ xảy ra ngày 17 tháng 9 năm 1894. Trận này liên quan đến hải